Facebook 08h00 - 20h00 hằng ngày
Zalo 08h00 - 20h00 hằng ngày
Gọi ngay
0904 890 895 08h00 - 20h00 hằng ngày
Home

Đông y trị tai biến mạch máu não

Đông y trị tai biến mạch máu não

Tai biến mạch máu não, còn gọi là rối loạn tuần hoàn não hay chứng đột quỵ (stroke), là một bệnh cảnh hư hỏng đột ngột một hoặc nhiều mạch máu thuộc hệ thống tuần hoàn não (cerebrel circulation) làm cho chức năng não bộ bị bất động gần như hoàn toàn. Bình thường tim bơm và cung cấp cho não khoảng 25% máu. Nếu vì một trục trặc nào đó mà não chỉ nhận được một lưu lượng máu ít hơn nhu cầu, các tế bào não sẽ bị ảnh hưởng do mất nguồn dưỡng khí (oxygen) gây ra hàng loạt sự hư hại hoặc hoại tử (necrosis) trong mô não (brain tissues) và chết. Đó là hậu quả của bệnh tai biến mạch máu não hay đột quỵ (Cerebrovascular accident- CVA)

Tại Hoa Kỳ hàng năm có hơn 500,000 người bị bai biến mạch máu não (CVA) trong đó 250,000 người chết trong vài tuần lễ đầu tiên và gần 2/3 nạn nhân sống sót trở thành tàn phế suốt đời. Theo thống kê, hiện nay Hoa Kỳ có trên 2 triệu (2,000,000) người bị tật nguyền do stroke.

  1. Nguyên nhân:

Nhân tố làm gia tăng nguy cơ tai biến mạch máu não gồm có:

– Tiền sử về những cơn thiếu máu cục bộ tạm thười (transient ischemic attacks _TIAs) hoặc lịch sử gia đình đã có người bị tai biến mạch máu não.

– Bệnh xơ cứng động mạch (atherosclerosis)

– Huyết áp cao (hypertension)

– Biến đổi điện tâm đồ (electrocardiogram changes)

– Loạn nhịp (arrhythmias)

– Bệnh thấp tim (rheumatic heart disease)

– Bệnh thống phong (gout)

– Tư thế huyết áp thấp (Postural hypotension)

– Tim lớn (cardiac enlargament)

– Mức triglyceride cao

– Thiếu vận động, uống thuốc ngừa thai, hút thuốc lá

Tai biến mạch máu não xảy ra do 3 nhân tố chính: Xuất hiện huyết khối (theombosis), nghẽn mạch (embolism) và chảy máu (hemorrhage).

  • Huyết khối (theombosis)

Vào hạng tuổi trung niên và lão niên thường dễ mắc bệnh xơ cứng động mạch, tiểu đường và huyết áp cao

Đây là những nguy cơ dẫn tới bệnh tai biến mạch máu não do tắc nghẽn mạch máu. Điều quan trọng là vị trí bị tắc nghẽn thường xảy ra ở mạch ngoài não (extraoerebral vessels) hơn mạch trong não (intracerebral vessels)

Huyết khối tạo chứng thiếu máu cục bộ trong mô não vì trận mạch bị bế tắc và gây phù nề (edema). Huyết khối có thể hình thành giữa lúc bệnh nhân đang ngủ hoặc vừa thức giấc, cũng có thể trong khi Bác sĩ giải phẩu và cả sau một cơn nhồi máu cơ tim (myocardial infarction). Hút thuốc lá, mắc bệnh tiểu đường, uống thuốc ngừa thai là những nguy cơ làm tăng tình trạng tạo huyết khối. Đối với các nạn nhân trẻ tuổi bị tai biến mạch máu não, ma túy như cocaine được coi là thủ phạm chính gây chứng thiếu máu cục bộ (ischemias)

  • Nghẽn mạch (embolism):

Nhân tố phổ biến thứ hai về tai biến mạch máu não là nghẽn mạch, một hiện tượng lấp kín mạch máu bởi một khối u, một mảnh mỡ, một nhóm vi khuẩn hay không khí. Nó có thể xảy ra ở bất kỳ hạng tuổi nào, trẻ cũng như già, đặc biệt là những bệnh nhân có tiền sử về bệnh thấp tim (rheumatic heart disease), viêm màng trong tim (Endocarditis), sau chấn thương bệnh van tim (posttaumatic valvular disease), rung cơ tim (myocardial fibrillation) và những bệnh loạn nhịp tim (Cardiac arrhythmias) khác hoặc sau phẫu thuật tim hở (open-heart surgery)

Vật nghẽn mạch gây tắc thường xuất hiện rất nhanh, chỉ trong vòng 10 – 20 giây, không có dấu hiệu báo trước.

Khi trôi vào hệ mạch não (cerebral vasculature), nó cắt đứt ngay đường vận hành của máu bằng cách chẹn cứng tại vị trí hẹp nhất của một động mạch, phần lớn tại động mạch não giữa (middle cerebral artery), gây hoại tử (necrosis) và phù (edema).

Nếu vật nghẽn mạch là một chất gây thối (septic) và nhiễm trùng (infection), việc kéo dài thời gian tích tụ ở thành mạch dễ phát sinh ung nhọt (abscess) hay bệnh viêm não (encephalitis). Nếu nhiễm trùng bên trong thành mạch sẽ biến thành chứng phình mạch (aneurysm) và dẫn tới tình trạng xuất huyết não (cerebral hemorrhage).

  • Xuất huyết (hemorrhage):

Nhân tố phổ biến thứ ba của bệnh tai biến mạch máu não là xuất huyết hay chảy máu. Giống như ngẽn mạch, hiện tượng xuất huyết cũng diễn ra thình lình và không giới hạn ở độ tuổi nào.

Xuất huyết là hệ quả từ bệnh cao huyết áp cao mãn tính (chomic hypertension) hoặc chứng phình mạch (aneurysms), bất ngờ chẹn ngang động mạch não khiến lưu lượng máu cung cấp cho khu vực bị giảm. Thêm nữa, máu tích lũy và tràn ngập bên trong não quá lâu sẽ chèn ép mô thần kinh (neural tissue) dẫn tới sự tàn phá thật nghiêm trọng.

Phân loại tai biến mạch máu não (CVA classification). Xếp loại tai biến mạch máu não nặng hay nhẹ tùy thuộc vào tiến trình bệnh lý. Mức độ ít khốc liệt nhất hay cơn thiếu máu cục bộ tạm thời, phần nhiều ở động mạch cổ và động mạch đáy cột sống (vertebrobasilar arteries)

Mỗi tiến trình tai biến mạch máu não, khởi đầu với sự hao hụt nhẹ về thần kinh, nhưng ngày qua ngày tình trạng càng xấu đi, nặng thêm. Trong những ca tai biến mạch máu não trầm trọng, sự thiếu hụt thần kinh đạt tới mức tối đa ngày từ lúc khởi sự

  1. Dấu hiệu và triệu chứng:

Phân tích đặc trưng của tai biến mạch máu não, các nhà y học nhận thấy nó biến đổi tùy theo ảnh hưởng của động mạch, mức độ khốc liệt của sự hư hoại và phạm vi của tuần hoàn nhánh bên còn gọi là tuần hoàn bằng hệ rất quan trọng, nhầm giúp cho não bù đắp phần máu cung cấp bị giảm sút.

Nếu tai biến mạch máu não xảy ra bên bán cầu trái (left hemisphere), nó sẽ phát sinh triệu chứng phía bên phải. Ngược lại nếu tai biến mạch máu não xảy ra bên bán cầu phải (Right hemisphere), sẽ thấy triệu chứng phía bên trái. Tuy nhiên, khi tai biến mạch máu não làm hư hỏng dây thần kinh sọ (Cranial nerve), triệu chứng về tình trạng loạn thần kinh chức năng sọ giống như tình trạng xuất huyết (hemorrhage)

Triệu chứng được xếp loại thường dựa theo ảnh hưởng của động mạch như sau:

– Tại động mạch não giữa (middle cerebral artery): có các triệu chứng như loạn ngôn ngữ (dysphasia), mất ngôn ngữ (aphasia), mất tầm nhìn của thị giác và liệt nhẹ bán thân (hemiparesis) phía bên bị ảnh hưởng, có khuynh hướng nặng phần mặt và cánh tay hơn là chân.

– Tại động mạch (Carotis artery) gồm các triệu chứng như yếu đuối, bại liệt (paralysis), tê liệt (numbness), biến đổi cảm giác rối loạn tầm nhìn

Phía bên bị ảnh hưởng, khả năng nhận thức thay đổi, đau đầu, mất ngôn ngữ và sụp mi mắt (prosis)

– Tại động mạch đáy đốt sống (vertebrobasilar artery): làm yếu phía bên bị ảnh hưởng, tê liệt chung quanh môi và miệng, mất tầm nhìn, song thị (tức là nhìn 1 vật thành 2), cử động vụng về, khó phát âm, nói phiều phào, chóng mặt, đãng trí và mất sự điều hòa.

– Tại động mạch não trước (anterior cerebral artery): Có triệu chứng bất khiển dụng nhiều cơ quan, yếu và tê liệt, đặc biệt chân phía bên bị ảnh, không tự kiềm chế được việc tiêu biểu theo ý muốn (như đái són, đái dầm, đi tiêu không hay biết), suy yếu chức năng cơ vận động và cảm giác, biến đổi nhân cách (personality changes)

– Tại động mạch não sau (posterior cereberal artery) Ám thị (không thấy hoặc giảm tầm nhìn), yếu hoặc mất cảm giác, loạn khả năng đọc (dyslexia), hôn mê (coma) và mù vỏ não (cortical blindness). Thường không có kèm theo chứng liệt (paralysis)

Triệu chứng cũng có thể được xếp loại như dạng tiền báo, phát tác toàn thân và tập trung tiêu điểm

Triệu chứng tiền báo (premonitory symptoms) gồm trạng thái dật dờ, cảm thấy buồn ngủ, hoa mắt, đau đầu, thần trí lý lẫn (mental conisusion) và mất trí.

Triệu chứng phát tác toàn thân (generalized symptoms) gồm đau đầu, nôn ói, giảm trí nhớ, lên cơn động kinh (seizures), hôn mê, cứng gáy, sốt và mất khả năng định hướng (disorientation).

Cuối cùng là triệu chứng tập trung tiêu biểu (isocal symptoms) bao gồm thay đổi cảm giác và phản ứng, hậu quả thật tồi tệ ở những vị trí bị xuất huyết.

  1. Chẩn đoán:

Xác định tai biến mạch máu não (CVA) thường dựa trên 2 tiêu chuẩn chính. Lịch sử dẫn tới tai biến và kết quả xét nghiệm. Về lịch sử đã dẫn ở phần trên. Về xét nghiệm, gồm các phương pháp sau đây:

– Computed tomography (CT) scan: Hay phương pháp CAT (computerized axial tomography), là kỹ thuật dùng tia X-ray chiếu xương qua cơ thể nhằm khảo sát, đo lường và phân tích mọi sự biến thể của các cơ quan nhờ hệ thống máy vi tính phản chiếu lên màn hình. Nếu là tai biến mạch não sẽ thấy ngay tình trạng xuất huyết, nhưng có thể không thấy được hình ảnh nhồi máu huyết khối (thrombotic infarction) trong vòng từ 48 đến 72 giờ.

– Magnetic resonance imaging (MRI): tương tự như phương pháp CAT, nhưng có ưu điểm là cung cấp dữ kiện về các cơ quan và cấu trúc bên trong cơ thể với chất lượng kỹ thuật cao mà không cần dùng tia X-ray hay tia phóng xạ (radiation) khác. Khi bị tai biến mạch máu não, MRI sẽ giúp nhận diện được khu vực thiếu máu cục bộ hay nhồi máu và sưng não.

– Brain scan: khảo sát não bộ bằng hệ thống siêu âm (ulstrasound) nhằm khảo sát những khu vực bị thiếu máu. Tuy nhiên, phương pháp này có thể không tìm thấy các chỉ dấu cụ thể trong vòng 15 ngày đầu kể từ lúc bị tai biến mạch máu não.

– Lumbar puncture: là phương pháp dùng 1 cây kim chọc vào phần dưới đốt xương sống lưng (spinal canal), rút ra một ít dịch não tủy (carebrospinal iluid) hoặc bơm thuốc hay dung dịch vào tủy sống để chẩn đoán bệnh tật. Thủ thuật này cung cấp một số dữ kiện về mật độ máu lẫn trong dịch não tủy đau khi bọ đột quỵ xuất huyết (hemorrhagic stroke).

– Ophthalmoscopy: là phương pháp soi đáy mắt bằng một dụng cụ đặc biệt mang tên Ophthalmoscopy, gồm 3 phần chính: 1 lỗ ngắm phía trên dành cho người quan sát, một bộ điều chỉnh với thấu kính nằm ở giữa và phần tay cầm có lỗ nạp pin ở phía dưới. Khảo sát bằng dụng cụ này có thể thấy những dấu hiệu biến đổi trong động mạch võng mạc mắt (retinal arteries) do ảnh hưởng bởi huyết áp cao và xơ vữa động mạch.

– Angiography: Là phương pháp khảo sát mạch máu trên phim chụp sau khi cho bơm đầy chất phản quang (contraost substance) vào mạch máu. Phương pháp này nhằm phát hiện bệnh qua sự biến đổi tính chất của đường ống dẫn máu (blood vessel channel) dưới 2 dạng: Phình mạch (aneurysms), do mạch máy yếu và phồng to như quả bóng, hoặc co hẹp hay nghẽn tắc do vữa động mạch (atheroma), nguyên nhân bởi mỡ lắng động (iatty depoit)

– Electroencephalography (EEG) tức là điện não ký. Phương pháp này dùng một số điện cực (electrodes) nhờ dãn vào da đầu và điện cực được nối với một hệ thống đo cường độ xung đột (impulse) của não. Kỹ thuật thu thập dữ kiện tiến hành vào lúc bệnh nhân mở mắt và nhắm mắt, giữa lúc và sau khi bệnh nhân thở sâu nhanh (hyperventilation), trong khi bệnh nhân nhìn thẳng vào ánh sáng đèn chớp (ilashing light). Kết quả khảo sát điện não ký dựa theo bốn mẫu sóng (waves): Sóng alpha, beta và theta được máy ghi lên điện não đồ bằng những nét nghoèo hình chữ chi (zigag) mà chỉ những nhà chuyên môn mới hiểu rõ.

– Ngoài ra, còn một số khảo sát căn bản khác trong phòng thí nghiệm gồm: Phân tích nước tiểu (urinalysis), tình trạng đông máu (blood coagulation) bao gồm việc đếm máu, nồng độ dung dịch huyết thanh (serum osmolatiry), dung dịch điện phân (electrolyte), glucose, triglyceride, creatinine và mức độ urea nitrogen huyết, …

  1. Điều trị theo đông y

Y văn cổ truyền không có từ ngữ “Tai biến mạch máu não”. Đông y học xếp bệnh tai biến mạch máu não vào chứng “trúng phong”.

Trúng phong được phân loại tùy thuộc vào tình trạng thực hay hư, nông hay sâu, ngọn hay gốc của bệnh mà đặt tên.

– Nếu liệt bán thân mà không hôn mê thì gọi là “Trúng phong kinh lạc”.

– Nếu liệt bán thân có kèm theo hôn mê thì gọi là “Trúng phong tạng phủ”.

– Nếu hôn mê mà cơ bắp co cứng thì gọi là chứng “Thoát thuộc hư”.

Theo đông y, nguyên nhân gây chứng trúng phong do 3 tạng Can – Thận – Tâm suy yếu khiến cho âm hư sinh phong, sinh đảm, hảo thịnh. Khi phong đàm hiệp với can hỏa nội động thì gây bế tắc, co giật, hôn mê. Sau đây là biến chứng luận trị một số trường hợp tiêu biểu:

  1. Trúng phong kinh lạc:

Triệu chứng: Liệt mặt, liệt bán thân, lưỡi lệch về phía không bị liệt, chóng mặt, hoa mắt, mất ý thức, mạch di huyền – tế – sác. Đây là thể bệnh di Can Thận âm hư, hỏa vượng, thường gặp ở những người bị cao huyết áp hay vữa động mạch. Nếu chân tay co quắp, miệng sùi bọt, lưỡi cứng khó phát âm và mạch đi phù hoạt hay truyền hoạt thì bệnh thuộc chứng phong đàm, thường gặp ở những người bị cao huyết áp lại kèm theo Cholesterol cao hơn chỉ số 199mg/dl.

Pháp trị: Tư âm, Bình can tiềm dương, trừ đàm, thông lạc, khai khiếu.

  • Bài thuốc: Linh dương giác thang gia giảm:

Công thức:

Linh dương giác phấn 04g (hòa thuốc uống); Quy bản 12g; Sinh Bạch thược 18g; Thạch quyết minh 20g; Câu đằng 15g; Sinh địa 15g; Bạch cúc hoa 10g; Thảo quyết minh (sao) 10g; Chế Nam tinh 10g; Thuyền thoái 06g; Thạch xương bồ 06g; Cam thảo 06g; Địa long 12g; Kê huyết đằng 16g; Thiên ma 12g; Bạch cương tằm 12g; Tang ký sinh 16g; Ngưu tất 12g.

Sắc uống ngày 1 thang

Kết quả lâm sàng: Bài này đã trị cho 14 bệnh nhân bị tai biến mạch máu não, đạt hiệu quả 87%. Nếu phối hợp thêm châm cứu, hiệu quả còn nhanh hơn.

Bệnh nhân Lê Hữu Thịnh 58 tuổi, có tiền sử cao huyết áp 18 năm, uống thuốc tây nhưng không ổn định. Mấy ngày qua cảm thấy tay chân tê rần, đầu váng, tai ù, vừa cãi vã xong với người nhà thì đột nhiên hôn mê ngã vật xuống đất bất tỉnh nhân sự, trong họng có tiếng đờm rít, 2 bàn tay nắm chặt, được chở ngay vào bệnh viện cấp cứu. Theo hồ sơ bệnh viện, được biết bệnh nhân thuộc dạng báo mập, sắc mặt đỏm hai hàm răng nghiến chặt, đồng tử co hẹp, mắt mũi miệng đều bị méo lệch, huyết áp 220/130mmHg, mạch đi huyền thực.

Trước hết, dùng khoa châm cứu để cấp cứu. Châm thập tuyên (10 đầu ngón tay) nặn máu. Tiếp theo, Châm bình bổ bình tả các huyệt Hợp cốc, Thái xung, Khúc trì, Phong long, Tâm âm giao, Nhân trung lưu kim 10 phút, bệnh nhân kêu ú ớ. Lưu kim 20 phút, bệnh nhân tự nhả 2 hàm răng và buông thỏng nắm tay. Cho uống bài thuốc trên, kết hợp với châm cứu trong 4 ngày thì bệnh nhân tỉnh táo, mắt mở nhắm khá tốt, miệng bớt méo lệch, nuốt được thức ăn. Tiếp tục trị 20 ngày, huyết áp xuống 145/90mmHg, tay liệt đã cầm được chén cơm, chân liệt có thể co duỗi và tập đi vài bước.

Để củng cố hiệu lực bài thuốc cho thời kỳ điều trị di chứng tai biên mạch máu não, bỏ vị Nam tinh, Thuyền thoái, Thạch xương bồ, Quy bản; gia thêm Hòe giác, Xuyên Ngưu tất, Độc hoạt, Uy linh tiên với liều lượng thích hợp. Kết quả khá mỹ mãn.

  1. Trung phong tạng phủ

Tai biến máu não có kèm hôn mê được chia làm 2 loại

  1. Chứng bế: Là thể liệt cứng do 2 tạng Tâm Can dương thịnh.

Triệu chứng: Hai bàn tay cứng, răng nghiến chặt, cơ thể co quắp, mắt đỏ, người nóng, trong họng có tiếng đàm rít khò khè, mạch đi hoạt dác hữu lực.

Pháp trị: Khu phong, thanh hỏa, tiêu đàm, khai khiếu

  • Bài thuốc “Linh dương câu đằng thang gia giảm”

Câu đằng 16g; Trúc lịch 80ml; Chế bán hạ 08g; Chế nam tinh 08g; Uất kim 08g; Thiên trúc hoàng 08g; Hoàng liên 04g.

Kinh nghiệm lâm sàng: Trần Y, nam 40 tuổi. Sau mấy hôm đi xa trở về, bỗng thấy tê cứng nửa mặt bên phải, mồm và mắt bị xô lệch một bên, nửa người bên phải cử động rất khó khăn, đi đứng chậm chạp, nói ngọng, khám thấy mạch đi trầm huyền, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng hơi bẩn. Theo đông y, “Tà tụ lại tất khí phải hư”. Khí đã hư thì huyết không hành, mạch lạc đình trệ. Hiện trạng vừa kể thuộc chứng “lý hư”. Pháp chính trị phải bổ ức khí huyết, tiêu ứ thông lạc. Liền cho uống 10 thang, bệnh nhân cảm thất mặt mũi giảm co cứng, nói còn hơi khó, đi lại còn chưa thoải mái, mắt miệng vẫn còn méo xệch, mạch đối ang trầm trì.

Nhận định: Trầm là khí hư không thông, Trì là huyết ứ không hành. Vẫn giữ nguyên phương, tăng Hoàng kỳ lên 60g; gia thêm Tế tân 2g để ôn kinh thông lạc, cho uống tiếp 10 thang. Khám thấy kết quả rõ rệt, mồm mắt cử động bình thường, chỉ còn hiện tượng miệng khô, váng đầu, mạch đi trầm hơi sác. Bài thuốc trên liền bỏ vị Tế tân, Bạch phụ tử, gia thêm thiên ma 6g, Thạc hộc 10g để khứ phong tư âm. Lại cho uống tiếp 10 thang nữa, các triệu chứng gần biến mất, thêm 10 thang nữa, bình phục hoàn toàn.

  1. Khí hư thốt đảo (khí hư thiên ngã lăn)

Những người tự nhiên bị tối sầm đầu mắt, ngã lăn hôn mê chẳng biết gì, trong cổ họng có đàm. Nhiều thầy thuốc cho là trúng phong, có biết đau nguyên nhân do “khí hư” nếu đem thuốc phong mà trị sẽ chết ngay. Chứng này bởi lúc trai tráng không giữ gìn sinh dục, trác táng vừa bãi, khiến cho tinh huyết hao tổn dẫn tới chân khí suy mòn. Chứng thì như phong mà không phải phong. Nên dùng:

Nhân sâm 30 – 40g; Sinh Hoàng Kỳ 30 – 40g; Bạch truật (sao) 30 – 40g; Phục linh 15 – 20g; Thạch xương bồ 03 – 04g; Thục phụ tử 03 – 04g; Chế bán hạ 06 – 08g; Bạch giới tử 10 – 12g.

Lấy nước sắc uống, ngày 1 thang. Phương thuốc này chuyên bổ khí mà không nghĩ đến trị phong, tiêu đàm mà không háo khí. Uống 1 thang tinh thần yên định, uống 3 thang mạnh khỏe hoàn toàn.

  1. Âm hư thốt đảo (âm hư tự nhiên ngã lăn)

Bệnh này bởi Thận thùy ở dưới hư suy không thượng giao với tâm hỏa ở trên tức Tâm Thận bất giao. Lại còn do can khí nóng ráo không sinh được Tâm hỏa. Đó là chứng âm hư nên dùng:

Thục địa 60 – 80g; Sơn thù nhục (sao) 30 – 40g; Huyền sâm 30 – 40g; Mạch môn (khứ tâm) 30 – 40g; Ngũ vị tử (sao) 30 – 40g; Bắc sài hồ 03 – 04g; Thạch xương bồ 03 – 04g; Phục linh 15 – 20g; Bạch giới tử (sao) 10 – 12g.

Sắc uống ngày 1 thang. Phương thuốc này bổ thận thủy, mát phế kim, an tâm hỏa, tả hảo tà, thông khiếu, tiêu đàm. Thật thần hiệu, uống 10 thang khỏi hoàn toàn.

Nhận định: Làm sao biết chắc do âm hư? Phải căn cứ vào vóc dáng người bệnh ốm gầy, bộ mặt xanh thâm. Khi ngã lăn thì hơi thở gần như suyễn, mắt nhắm nghiền.

  1. Dương hư thốt đảo (Dương hư tự nhiên ngã lăn)

Bệnh này bởi tâm hỏa ở trên không liên kết với Thận thủy ở dưới, trên dưới phân ly, khiến cho dương hư nên ngã lăn bất tỉnh. Nên dùng thang:

Nhân sâm 30 – 40g; Bạch truật (sao) 30 – 40g; Sinh Táo nhân 30 – 40g; Phục thần 15 – 20g; Phục phụ tử 03 – 04g; Cam thảo 03 – 04g; Sinh bán hạ 10 – 12g.

Lấy nước sắc uống. Thuốc vừa xuống khỏi cổ thì đàm tiêu, hơi thở điều hòa. Uống liên tiếp mấy thang cơ thể được an nhiên như cũ.

Bệnh này có trường hợp do Vị nhiệt không có khả năng giữ an cho Tâm hỏa nên ngã lăn bất tỉnh, cũng đều tại Dương hư. Nên dùng:

Nhân sâm 30 – 40g; Huyền sâm 30 – 40g; Sinh thạch cao 15 – 20g; Thiên hoa phấn 15 – 20g; Mạch môn đông 10 – 12g; Thạch xương bồ 03 – 04g.

Lấy nước sắc uống. Uống 1 thang Tâm hỏa yên tỉnh, uống 2 thang thanh giải vị hỏa, uống 3 thang mạnh khỏe hoàn toàn.

Nhân định: làm sao biết chắc là do Dương hư? Phải có chứng huyền vựng, tức là đầu mặt xây xẩm, quay cuồng, sắc mặt đỏ gay. Khi ngã lăn, trán và mũi có lấm tấm mồ hôi. Nếu là vị nhiệt thì miệng hôi, chân răng khô

  1. Thuân hư thốt đảo (thận hư tự nhiên ngã lăn):

Những người khi ngã mà miệng khát đòi uống nước, hơi thở như suyễn, mạch tâm đi hồng đại, lưỡi cứng không nói được. Đó là thận hưu cực độ, không thể dùng thuốc Dương hư hay khí hư mà trị được vì như tưới thêm dầu vào lửa. phép trị phải bổ Thận, thêm những vị có tính thanh hảo làm tá sứ mới là chính trị. Nên dùng “Thủy hỏa lưỡng trị tang” như dưới đây:

Thục địa 30 – 40g; Đương qui 30 – 40g; Huyền sâm 30 – 40g; Mạch môn 15 – 20g; Sinh địa 15 – 20g; Sơn thù nhục 15 – 20g; Phục linh 15 – 20g; Hoàng liên 10 – 12g; Bạch giới tử 10 – 12g; Ngũ vị tử 03 – 04g.

Sắc uống ngày 1 thang. Uống liên tiếp mấy thang là yên.

  1. Đại nộ thốt đảo (Giận quá tự nhiên ngã lăn):

Những người nóng giận quá sức, có hành động la lối, vung tay múa chân, đập phá náo loạn, bỗng nhiên ngã vật xuống đất, hai tay co giật, môi miệng méo lệch, mắt bên trái co rúm nhắm cứng. Đó là can hỏa thượng xung làm cho huyết hư, nội nhiệt sinh phong. Nên dùng:

Nhân sâm 08g; Phục linh 12g; Xuyên qui 08g; Thục địa 12g; Cam thảo 04g; Xuyên khung 04g; Bạch thược 04g; Sa nhân 04g; Mẫu đơn bì 12g; Câu đằng 15g; Sơn chi tử 04g.

Sắc uống 1-2 thang là yên định.

Nếu có chứng trạng như trên mà đái ra quần, mạch tả quan đi huyền – hồng – sác (căng cứng, nhanh) là do can hỏa vượng làm cho huyết táo. Nên uống lục vị thang gia giảm theo công thức sau đây:

Sinh địa 30g; Hoài sơn 16g; Sơn thù nhục 16g; Phục linh 12g; Trạch tả 12g; Mẫu đơn bì 12g; Câu đằng; Ngũ vị tử 08g; Mạch môn đông 15g; Xuyên khung 08g; Đương qui 16g.

Lấy nước sắc uống. Khi đã khỏi rồi nên đổi qua dùng phương “Bổ trung ích khí thang gia giảm” theo công thức sau đây:

Nhân sâm (sao gừng) 12g; Chích Hoàng Kỳ 12g; Xuyên qui 12g; Bạch truật (sao cám) 12g; Thăng ma 08g; Bắc Sài hồ 08g; Trần bì 08g; Cam thảo 04g; Sơn chi tử 04g; Mẫu đơn bì 12g; Câu đằng 16g.

Lấy nước sắc uống. Nên uống lâu ngày một chút để điều lý thì bệnh không tái phát. Riêng phụ nữ mắc chứng bệnh nêu trên, nên dùng phương “tiêu dao tán” theo công thức sau đây:

Bạch thược (sao) 12g; Bạch truật (sao) 12g; Phục linh 12g; Bắc Sài hồ 12g; Đương qui 12g; Cam thảo 06g; Bạc hà diệp 03g; Gừng nướng 03g; Câu đằng 16g;

Lấy nước sắc uống. Khi bệnh đã yên, nên đổi qua dùng phương “Lục vị thang” mà uống là đúng pháp lục vị thang gồm có 6 vị thuốc:

Thục địa 30g; Hoài sơn 16g; Sơn thù nhục 16g; Phục linh 12g; Trạch tả 12g; Mẫu đơn bì 12g.

Lấy nước sắc uống

  1. Bán thân bất toại (liệt nửa người):

Bệnh “bán thân bất toại”, méo mồm, xếch mắt, nên nhắm vào hai tạng phủ “Tâm và vị” mà điều lý. Bởi tâm chủ về khí thiên chân, là “bàn” là gốc của thần cơ khai phát. Vị (dạ dày) chủ về phủ, về khi chứa đồ ăn, là “tiêu” là ngọn của khí thiên chân. Khi tiêu với bản mà cùng sung túc thì chân khí 2 nơi Đản trung (trước ngực) và Khí thải (vùng bụng) cũng được tràn đầy, phân bố đi khắp ngũ tạng, lục phủ, tam tiêu, không đâu là không tới. Nếu tiêu với bản cùng mất cả thì chân khí không sao tới được huyệt Khí hải, làm cho kinh mạch thiên khô, khô héo, lệch lạc) sinh ra méo mồm, xếch mắt, không tới được ngũ tạng thì sinh ra câm.

Pháp trị nên dùng “Hoàng kỳ dưỡng huyết thang” là đúng lý. Chớ nên dùng xuyên ô, Phụ tử, Khương hoạt cho uống chỉ là làm khô vinh huyết, háo vệ khí, bệnh nhân sẽ chết. Cái chết ấy là do thầy thuốc giết người.

  • Phương hoàng kỳ dưỡng huyết thang gồm:

Nhân sâm 15 – 20g; Đương qui 15 – 20g; Bạch truật (sao) 15 – 20g; Sinh Hoàng kỳ 30 – 40g; Sinh Bán hạ 09 – 12g; Cát căn 09 – 12g; Hồng hoa 06 – 08g; Cam thảo 305 03 – 04g; Quế chi 05 – 06g; Đại táo 02 quả; Gừng tươi 03 lát.

Đổ 4 chén nước nấu lấy 1 chén, chia uống 2 lần. Uống liên tục nhiều ngày bệnh nào cũng khỏi, bất tất phải thay đổi.

  1. Khẩu nhản oa tà (Trúng gió miệng mắt méo lệch):

Bệnh trúng phong làm cho méo miệng, lệch mắt, nhiều thầy thuốc trị can mộc và phế kim là đúng lắm, nhưng chưa biết vị thổ còn quan trọng hơn nhiều. Sở dĩ phải trị thêm vị thổ vì lẽ nội kinh nói: “Túc dương minh Vị kinh, khi bị dong thì miệng méo lệch, mắt díu lại không thấy”. Chứng này do vị thổ gây ra, nội kinh lại nói “Mạch ở túc dương minh Vị, hiệp với miệng vòng quanh ra môi”, Hay môi miệng méo lệch là bởi mạch vị thồ làm ra vậy. Từ hai lý chứng dẫn chú, nên dùng phương thuốc sau đây:

Hoàng kỳ 30 – 40g; Đương qui 15 – 20g; Nhân sâm 10 – 12g; Bạch thược (Sao) 12 – 16g; Cam thảo 03 – 04g; Quế chi 06 – 08g; Thăng ma 03 – 04g; Cát cánh 06 – 08g; Tân giao 08 – 10g; Bạch chỉ 06 – 08g; Phòng phong 06 – 08g; Hoàng bá 08 – 10g; Tô mộc 10 – 12g; Hồng hoa 06 – 08g.

Đổ 1 chén rưỡi nước, thêm 1 chén rưỡi rượu, nây còn 8/10 chén, chia uống 2 lần lúc thuốc còn âm. Nếu lúc mới phát bệnh mà có ngoại cảm thì giam thêm 3 củ hành tăm vào nấu uống lúc còn ấm cho mồ hôi tiết ra là khỏi.

Bệnh này còn có người bởi tâm yếu quá không thể giao liên với mắt miệng, nhẹ thì méo lệch, nặng thì câm khẩu. Nên dùng phương sau đây:

Nhân sâm 12g; Phục linh 12g; Thạch xương bồ 12g; Bạch thược (sao) 12g; Bạch truật (sao) 15 – 20g; Cam thảo 04g; Chế bán hạ 08g; Nhục quế 08g; Đương qui 30 – 40g.

Lấy nước sắc uống. Uống 2 thang có thể khỏi bệnh.

Phụ phương: Nhờ 1 người ôm giữ chặt người bệnh, 1 người khác giữ chặt lấy vành tai. Thầy thuốc nắm vành tai của người bệnh má kéo ra (méo miệng về bên trái thì kéo vành tai bên phải và ngược lại). Xong, dùng bàn tay chà xát mạnh vào khu vực vị méo lệch, xát hàng trăm lần cho đến khi người bệnh cảm thấy nóng như hư lửa mới thôi. Như vậy, một lát sau miệng, mắt sẽ yên nhiên như cũ. Thật là thần hiệu.

  1. Trúng phong bất ngữ (trúng gió làm câm)

Những người trúng gió ngã té hôn mê và cấm khẩu, hay là tự nhiên sau giấc ngủ rồi nằm liệt trên giường, đều bởi “Khí hư mà đàm sinh bệnh”. Nên dùng phương “Tam sinh thang” sau đây để cứu độ:

Nhân sâm 30 – 40g; Sinh bán hạ 09 – 12g; Sinh nam tinh 09 – 12g; Sinh phụ tử 15 – 20g.

Lấy nước sắc mà đổ cho bệnh nhân nuốt xuống. Uống xong ít lâu sẽ yên.

Bệnh trúng phong còn có người do “Thận hư” mà thành. Phải biết rằng thận giữ việc chứa tinh, chủ cho sự sống ở phần Hạ tiêu huyệt đạo và 2 mạch “xung – Nhâm” liên hệ vào đấy. Xung Nhâm hiệp với thận từ dưới đi lên nhập vào Bào lạc tạo thành cái bể chứa kinh mạch, cho nên gọi xung là huyết hải (bể chứa máu). Mạch xung đi lên thì thấm vào mọi đường Dương, rót sinh khí vào mọi đường tinh, còn đi xuống thì thấm vào mọi đường âm, rót vào mọi đường lạc, nhờ vật mà da thịt được ấm, cân cơ linh hoạt. nay nhân thì thận hư, bào lạt bế tắc, trên thận không thì làm câm, dưới 2 dây Xung Nhâm không thấu suốt thì quyết lãnh tê bại. Nên dùng phương “Địa hoàng ẩm từ gia giảm” mà trị ắt là hồi sức không sai:

Thục địa 30 – 40g; Ba khích nhục 30 – 40g; Sơn thù nhục    30 – 40g; Phục linh 30 – 40g; Mạch môn đông 30 – 40g; Nhục thung dung 30 – 40g; Thục phụ tử 15 – 20g; Thạch xương bồ 15 – 20g; Ngũ vị tử 15 – 20g; Thạch hộc 18 – 24g; Nhục quế 15 – 20g; Bạc hà diệp 04 – 06g; Đại táo 4 quả; Gừng tươi 3 lát.

Lấy nước sắc uống. Tuy nhiên, đối với người bị huyết áp cao, nên bỏ vị Thục phụ tử và Nhục Quế

  1. Phương pháp dưỡng sinh

Tập thói quen tốt.

– Bỏ hút thuốc lá, uống rượu

– Năng tập thể dục đều đặn, tránh mập phì năng tập vật lý trị liệu thường xuyên. Tập sống lạc quan, luôn mỉm cười với mọi bất bình.

– Chấp nhận hậu quả, coi như cái giá phải trả.

Bài thuốc Đông y trị tai biến mạch máu não mang tính chất tham khảo độc giả không nên tự ý bốc thuốc uống khi cần phải gặp bác sĩ đông y để được thăm khám và kê toa. Quý khách có nhu cầu thăm khám và tư vấn miễn phí vui lòng liên hệ:

Thiện Minh Y Quán

ĐC: B14/12/9, Cây Cám, Tân Vĩnh Lộc, TPHCM

ĐT & Zalo: 0904 890 895 – Website: www.thienminhyquan.com

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *