“Hyperlipemia” hay “High cholesterol”, tiếng Việt gọi là “chứng mỡ máu cao” là một thuật ngữ y khoa được người Việt Nam, đặc biệt trong cộng đồng người Việt định cư tại hải ngoại, quan tâm và nói đến nhiều kể từ năm 1975.
Chứng mỡ máu cao, còn gọi là chứng tăng lipid – huyết, là hiện tượng mỡ trong huyết tương cao hơn mức bình thường, chủ yếu 2 loại mỡ cholesterol và triglycerides chiếm tỷ lệ cao nhất.
Nếu tình trạng này không được cải thiện kịp thời, để tồn đọng lâu ngày, sẽ dẫn tới nguy cơ mắc nhiều chứng bệnh nguy hiểm gồm: Bệnh xơ vữa động mạch (atherosclerosis), bệnh động mạch vành (coromaritis), chứng cao huyết áp (high blood pressure, hypertension), bệnh béo phì (obesity), bệnh tiểu đường (diabetes mellitus), Tai biến mạch máu não (cerebrovasculardisease), chứng đột quỵ (stroke)…
Ngày nay, chẳng những giới y khoa chú tâm nghiên cứu thêm nhiều loại thuốc mới nhầm điều trị chứng mỡ máu cao có hiệu quả mà người dân cũng biết tự phòng bệnh, ăn uống kiêng cử đúng mức. Chế độ ăn kiêng hoặc hạn chế thực phẩm chứa nhiều mỡ động vật là chìa khoá bảo vệ sức khoẻ hữu hiệu nhất.
- LÂM SÀNG HỌC
Theo Frederickson, chứng lipid – huyết cao được chia thành 5 loại:
– Loại I: Chứng Chylomicron huyết cao với đặc điểm: Cholesterol bình thường, Triglycerides cao, Chylomicron rất cao. Thế này thường có tính di truyền do thiếu men lipase lipoprotein, rất nhạy cảm với chất mỡ, ít gây xơ cứng động mạch.
– Loại II: Chứng Beta – lipoprotein huyết cao, còn gọi là chứng tăng lipid – huyết, do ăn nhiều với đặc điểm: Cholesterol và Triglycerides tăng vừa nhưng Beta và tiền Beta – lipoprotein tăng rất cao. Nếu như Cholesterol, beta – lipoprotein rất cao, triglycerides bình thường thì được xếp vào dạng cholesterol di truyền, là bệnh nặng, dễ gây biến chứng xơ cứng động mạch sớm.
– Loại III: Chứng tăng lipid – huyết áp hỗn hợp với đặc điểm: cả cholesterol và triglycerides đều tăng cao. Đây là thể nặng, có biến chứng xơ cứng động mạch, khó phục hồi nguyên trạng vì sự hiện diện thành phần hydrat carbon.
– Loại IV: Chứng tăng triglycerides đơn thuần với đặc điểm: Triglycerides tăng cao, cholesterol bình thường.
Thể này phần nhiều có tính di truyền, dễ gây biến chứng xơ vữa động mạch, nhạy cảm với chất hydrat carbon và rượu
– Loại V: Thể hỗn hợp giữa thể I và IV với đặc điểm: Chylomicron huyết tăng cao, triglycerides cao, cholesterol cũng tăng cao hơn bình thường, rất nhạy cảm với mỡ và hydrat carbon.
- ĐỊNH LƯỢNG
– Yếu tố di truyền có ảnh hưởng đến bệnh thuộc thể I, IV, V.
– Yếu tố tập quán có ảnh hưởng đến bệnh thuộc thể III.
– Loại II thuộc thể bệnh nặng, ít có trường hợp nhẹ.
- Tuổi mắc bệnh
– Loại I phát hiện sớm ở trẻ em.
– Loại V phát triển bệnh chậm, thường trên 30 tuổi.
– Loại II có tính di truyền nên phát bệnh từ nhỏ.
– Loại III, IV thường gặp ở tuổi trung niên và cao niên.
- Tỷ lệ mắc bệnh
– Loại II và IV có tỷ lệ mắc bệnh cao, chiếm 80 – 90%.
– Loại III, V rất ít gặp, còn loại I càng hiếm.
- Tương quan giữa bệnh và thể tạng
Loại III, IV, V thường gặp ở người béo phì Loại I và II ít gặp ở người béo phì
Loại II và IV thường gặp ở người mắc bệnh mạch vành vừa xơ cứng động mạch, tỷ lệ ngang nhau. Người có bệnh thuộc loại II trước 40 tuổi thường thấy vòng lão hoá ở giác mạc
Khi mắc bệnh mỡ máu cao thường kèm theo các bệnh khác: Tiểu đường, hội chứng thận hư, suy tuyến giáp, tắc ống dẫn mật, viêm tuyến tuỵ, viêm gan, nhiễm độc rượu…
- CHẨN ĐOÁN
Được coi là mỡ máu cao hay high cholesterol khi nào trị số cholesterol toàn phần trong máu đo cao hơn 199 mg/dl và triglycerides cao hơn 130 mg/dl. Theo chương trình giáo dục quốc gia về cholesterol của Hoa Kỳ, tức cơ quan “The National cholesterol Education Program” qui định mức an toàn về cholesterol (bao gồm cả hai loại LDL và HDL) và 200mg/dl. Từ 200 – 239mg/dl được xem là ranh giới an toàn (safe borderline). Từ mức 240mg/dl trở lên, nguy cơ mắc bệnh tim mạch càng cao.
Tại Hoa Kỳ, mức mỡ tốt (HDL) trung bình ở người lớn cần duy trì trong khoảng từ 45 -50mm/dl. Đối với phụ nữ, cần tăng hơn một chút ở mức 50 – 60mm/dl. Các nhà khoa học để xướng mức mỡ tốt (HDL) nên tăng hơn nữa, từ 70 – 80mg/dl, sẽ tạo ra khả năng chống lại bệnh tim mạch rất cao. Trái lại, nếu mỡ tốt (HDL) thấp, dưới 35mg/dl có nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Ví dụ: Phiếu xét nghiệm máu ghi cholesterol toàn phần là 200mg/dl, trong đó mỡ tốt (HDL) là 80mg/dl, mỡ xấu (LDL) là 120mg/dl. Kết quả này chẩn đoán bạn ít có nguy cơ bị bệnh tim mạch (vì HDL cao hơn chỉ số quy định). Nói cách khác, nếu bạn có trị số cholesterol toàn phần cao hơn 200mg/dl mà nồng độ mỡ tốt (HDL) cũng cao thì bạn ít có nguy cơ bị bệnh tim mạch. Ngược lại, cho dù cholesterol toàn phần của bạn thấp hơn 200mg/dl mà trị số mỡ tốt (HDL) dưới 35mg/dl thì nguy cơ mắc bệnh tim mạch rất cao.
- Nhưng cholesterol là gì?
Trước hết, cholesterol là một chất giống như mỡ, trong vắt như pha lê, nhưng đôi khi lại có màu hơi vàng. Về phương diện kỹ thuật, cholesterol được phân loại như chất kích thích tố steroid. Tuy nhiên, vì cholesterol hoà tan trong mỡ dễ dàng hơn trong nước nên được xếp vào nhóm chất béo (lipid).
Cholesterol có mặt khắp nơi, trong máu, não, thần kinh, gan và trong mật con người và các loại động vật có xương sống. Đây là lý do tại sao các nhà khoa học khuyên chúng ta tránh ăn thịt động vật cũng như các loại thực phẩm khác có nguồn gốc động vật vì muốn giảm mức choleserol trong máu.
Hiện nay, do thành kiến và hiểu lầm, một số người tin rằng cholesterol là chất có hại cho sức khoẻ nên tỏ ra khinh miệt, ghê tởm, gán ép nhiều tội ác xấu xa. Thực tế, cholesterol rất cần cho nhiều chức năng trong cơ thể.
Có khoảng 80% cholesterol do gan sản xuất, 20% còn lại do nguồn thực phẩm bên ngoài. Mỗi ngày cơ thể sản xuất chừng 1000mg cholesterol và cần thêm khoảng 300mg nữa từ nguồn thực phẩm ăn vào là đủ cho nhu cầu hoạt động. Rất tiếc, chế độ ăn uống hiện nay thường dung nạp từ 500 – 900mg cholesterol/ngày, cho thấy con số cholesterol thặng dư rất đáng lo ngại.
Trong cơ thể, cholesterol được sử dụng thành lập màng (membranes) tế bào. Cholesterol còn đươc dùng trong nội tiết tố sinh dục (sex hormones) và tiến trình tiêu hoá (digestuve process).
Cholesterol được tổng hợp từ gan và phát xuất từ gan, theo máu vận chuyển đến khắp các mô (tissue) dưới dạng những phân từ chất đạm (protein) gọi là lipoproteins. Thực chất, lipoprotein cũng là một chất trong nhóm các protein kết hợp với chất béo hay các lipid khác (gồm cả cholesterol), hiện diện trong huyết tương hay bạch huyết (lymph). Lipoprotein giữ vai trò truyền tải các lipid vào trong máu và bạch huyết. Sau khi tế bào nhận những gì chúng cần, các chất lipoprotein dư thừa sẽ theo máu di chuyển trở về gan.
- Có 2 loại lipoprotein chính:
- Loại low – density lipoproteins (viết tắt LDLs) thường gọi là mỡ xấu hay bad cholesterol
- Loại high – density lipoproteins (viết tắt HDLs) thường gọi là mỡ tốt hay good cholesterol
Sao gọi là mỡ tốt, mỡ xấu? Về mặt phân tích chức năng, các nhà khoa học nhận thấy loại low – density lipoproteins (LDLs) chứa thành phần cholesterol quá đậm đặc vì lý do LDLs là những phân tử chuyên lo vận tải cholesterol từ gan đi tới các cơ quan có nhu cầu. Ngược lại, high – density lipoproteins (HDLs) chứa thành phần cholesterol ít hơn, nhẹ hơn vì đóng vai trò người phu quét đường, thường xuyên tuần lưu trong huyết quản với trách nhiệm thu hồi tất cả cholesterol dư thừa trong máu và các mô mang trở về gan. Tại đây, một lần nữa, cholesterol xấu lại được nhào lộn, tổng hợp thành low – density lipoproteins (KDLs) rồi tiếp tục vận chuyển tới các cơ quan theo quy trình khép kín.
Nếu như hệ thống cung ứng sản phẩm và thu hồi phế liệu cholesterol hoạt động tốt, chức năng hoàn hảo thì sức khoẻ an toàn nhờ được cân bằng. Nếu vì lý do trục trặc nào đó xảy ra, như nồng độ mỡ xấu (LDLs) quá cao hoặc số lượng mỡ tốt (HDLs) thiếu hụt, sẽ dân tới tình trạng cholesterol kết khối lại với nhau thành những miếng bợn (plaques) bám thành mạch máu, làm hẹp, thậm chí lấp kín cả động mạch gây ra các bệnh về tim mạch.
Khoa học chưa biết rõ lipoproteins thực hiện chứ năng và liên kết với các nhân tố khác trong cơ thể như thế nào, tuy nhiên biết chắc rằng người nào có mức mỡ tốt (HDLs) cao và mức mỡ xấu (LDLs) thấp thì ít có nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Mỡ xấu, bad cholesterol (LDL) được đánh giá là loại nhu liệu thứ yếu, có mức tin cậy thấp. Vì thế, chúng ta cần nhận thức và thực hiện chặt chẽ trong việc tiêu thụ thực phẩm hằng ngày. Mỡ xấu (LDL) nằm trong hầu hết các loại thực phẩm có nguồn gốc động vật như: bò, cừu, heo, gà, vịt, tôm, cua, trứng gia cầm, gan, đồ lòng: đặc biệt trong mỡ và da. Mỡ xấu (LDL) còn hiện diện trong một số chất khác có nguồn gốc thực vật thuộc dạng mỡ bảo hoà (saturated fats), đường và rượu (alcohol).
Dưới đây là bảng phân tích thành phần cholesterol trong nguồn thực phẩm động vật (Theo “Back to Eden” của Bác sĩ jethro Kloss, Hoa Kỳ)
THỰC PHẨM | ĐO LƯỜNG | CHOLESTEROL |
Não, óc (Brains) | 3 ounces (oz.) | Trên 1,7000mg |
Thận, cật (kidney) | 3 oz | 680mg |
Gan (liver) bò, heo, cừu | 3 oz | 370mg |
Trứng gia cầm (egg) | 1 tròng đỏ | 250mg |
Tim (heart) bò, heo | 3 oz | 230mg |
Tôm (shrimp) | 3 oz | 130mg |
Cừu, bê, cua | 3 oz | 85mg |
Thịt bò, heo, gà | 3 oz | 75mg |
Thịt trai, cá bơ, tuna | 3 oz | 55mg |
Sò huyết, cá salmon | 3 oz | 40mg |
Bơ (butter) | 1 muỗng cafe | 35mg |
Sữa bò tươi | 1 cup | 34mg |
Pho mát (cheese) | 1 oz | 28mg |
Kem (ice cream) | 1/2 cup | 27mg |
- Dầu ăn (salad & cooking oils):
Dầu rum (safflower) | 100 | 9 | 12 | 74 | 73 |
Dầu hướng dương (sunflower) | 100 | 10 | 21 | 84 | 84 |
Dầu bắp (corn oil) | 100 | 13 | 25 | 58 | 57 |
Dầu đậu nành (soybean) | 100 | 15 | 43 | 37 | 32 |
Dầu hạt vải (cottonseed) | 100 | 26 | 19 | 51 | 50 |
Dầu mè (seame) | 100 | 15 | 40 | 40 | 40 |
Dầu đậu phộng (peanut) | 100 | 17 | 47 | 31 | 31 |
Dầu cọ (palm) | 100 | 48 | 38 | 9 | 9 |
Dầu olive | 100 | 14 | 72 | 9 | 8 |
Dầu dừa (coconut) | 100 | 86 | 6 | 2 | 2 |
Các loại shortening | 100 | 25 | 44 | 26 | 23 |
- Mỡ động vật (animal fats)
Mỡ gà (chicken) | 100 | 32 | 45 | 18 | 17 |
Mỡ heo (lard) | 100 | 40 | 44 | 12 | 10 |
Mỡ bò (beef tallow) | 100 | 48 | 42 | 4 | 4 |
Mỡ cừu (lamb tallow) | 100 | 52 | 43 | 5 | 3 |
Mỡ cá salmon tươi | 9 | 2 | 2 | 5 | 1 |
Mỡ cá tuna tươi | 8 | 2 | 2 | 3 | 0.5 |
Mỡ cá thu (mackerel) | 10 | 2 | 4 | 2 | 0.5 |
Mỡ cá trích (herring) | 6 | 2 | 2 | 1 | 0.5 |
- Dầu từ hạt (nuts)
Dầu hồ đào (walnut) | 63 | 7 | 10 | 42 | 35 |
Dầu hồ đào (pecan) | 71 | 6 | 43 | 18 | 17 |
Dầu đậu phộng | 48 | 9 | 24 | 13 | 13 |
Dầu lòng đỏ trứng | 33 | 10 | 13 | 4 | 4 |
Dầu trái bơ (avocado) | 15 | 2 | 9 | 2 | 2 |
- Chất béo từ sữa (milk fats)
Sữa người | 46 | 46 | 8 | 7 |
Sữa dê | 62 | 32 | 6 | 5 |
Sữa bò | 50 | 23 | 3 | 2 |
- Dầu ngũ cốc (ceral oils)
Dầu lúa mạch đen (rye) | 16 | 14 | 70 | 62 |
Dầu mầm lúa mì (wheat germ) | 16 | 25 | 59 | 42 |
Dầu mầm mạch (oatmeal) | 22 | 36 | 42 | 40 |
Dầu cám gạo (rice) | 17 | 45 | 38 | 34 |
Dầu cacao (cocao butter) | 57 | 41 | 2 | 2 |
- Nguyên nhân
- Theo y học hiện đại
Các nhà khoa học dựa vào thể loại cholesterol để chẩn đoán nguyên nhân: Dưới đây là bảng phân tích nguyên nhân tạo ra cholesterol (theo “Handbook of Diseases” của nhà xuất bản Springhouse, Hoa Kỳ):
– Loại I (hyperlipoproteinemia): Do thiếu hoặc rối loạn chất lipoprotein lipase. Thường thấy xuất hiện ngay khi mới sinh ra.
– Loại II (hyperbetalipoproteinemia, hypercholesterolemia, có liên hệ đến yếu tố gia đình): Do thiếu tế bào thụ thể (receptors) giữ vai trò điều hoà, tiết giảm LDL, làm cho mức huyết thương (plasma) LDL tăng cao hơn mức bình thường. Thường xảy ra trong hạn tuổi từ 10 – 30 tuổi.
– Loại III (thấy trong bệnh board – beta disease, xanthoma tuberosum mang yếu tố gia đình): Do mất khả năng kiểm soát, điều hoà mức triglyceride và LDL thặng dư. Thường xảy ra sau 20 tuổi, cũng có thể sớm hơn ở nam giới.
– Loại IV (hypertriglyceridemia, hyperbetalipoproteinemia nội sinh): Mang tính đi kèm, thường xảy ra sau thời gian mắc bệnh nghiện rượu, bệnh tiểu đường, bệnh béo phì hoặc bệnh rối loạn chức năng thần kinh. Khá phổ biến, đặc biệt nam giới ở mọi lứa tuổi trung niên (35 – 40 tuổi).
– Loại V (hypertriglyceridemia, hyperlipidemia pha trộn): Do ảnh hưởng bởi một căn bệnh khác như bệnh hư thận (nephrosis) hoặc béo phì, khiến cho thụ thể giữ vai trò điều hoà, kiểm soát mức triglyceride bị bỏ trồng. Thường xảy ra muộn vào lúc trưởng thành.
- Theo Đông y học:
Đông y qui nạp chứng mỡ máu cao và 4 thể bệnh:
- Thể Thấp nhiệt uất kết:
Có các biểu hiện người nóng ran, khát nước, tiểu ít, bụng đầy, phù, vẫn cảm thấy khoẻ, rêu lưỡi vàng dày, mạch đi Hoạt – Sác, xét nghiệm máu thấy lipid – huyết cao.
- Thể Tỳ hư đàm thấp:
Có các biểu hiện mệt mỏi, chân tay mỏi, bụng đầy, chán ăn, ho nhiều đàm, tiêu lỏng, rêu lưỡi trắng dầy, mạch đi Hoạt, xét nghiệm máu thấy lipid huyết cao.
- Thể Khí trệ huyết ứ:
Có triệu chứng hay đau nhói trước ngực (thường kèm theo bệnh động mạch vành, thiếu máu cơ tim), lưỡi tím hoặc có điểm ứ huyết, mạch đi huyền, xét nghiệm máu thấy lipid – huyết cao.
- Thể Tỳ thận lưỡng hư:
Có các biểu hiện mệt mỏi, bụng đầy, ăn kém, lưng gối nhức mỏi, ù tai, hoa mắt, lưỡi đỏ, rêu mỏng, mạch đi Trầm Tế vô lực, xét nghiệm máu thấy lipid cao, thường gặp ở những người cao tuổi.
- Điều trị:
Đông y dựa vào thể bệnh và mạch lý để đối chứng lập phương. Sau đây là một số bài thuốc tiêu biểu:
- Bài 1: Thể Thấp nhiệt uất kết
Bạch truật 15g; Phục linh 15g; Trư linh 15g; Trạch tả 15g; Nhẫn đông đằng 15g; Ý dĩ nhân 15g; Bạch hà diệp 12g; Cam cúc hoa 12g; Mộc thông 12g; Hoạt mạch 30g; Cam thảo 04g; Thảo quyết minh 20g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài 2: Thể “Tỳ hư đàm thấp”
Đảng sâm 12g; Bạch truật 12g; Phục linh 12g; Trúc nhự 12g; Trần bì 10g; Chế bán hạ 10g; Chỉ thực 10g; Mộc hương 10g; Sa nhân 10g; Uất kim 10g; Chích cam thảo 03g; Bạch phàn 02g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài 3: Thể “Khí trệ huyết ứ”
Sinh địa 16g; Đương qui 16g; Bạch thược (sao rượu) 16g; Đào nhân 12g; Xuyên ngưu tất 12g; Bắc sài hồ 12g; Tử đan sâm 12g; Bồ hoàng 10g; Sung uý tử 10g; Chỉ thực 10g; Hương phụ 10g; Xuyên khung 10g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài 4: Thể “Tỳ thận lưỡng hư”
Hà thủ ô 12g; Thỏ ty tử 15g; Nữ trinh tử 12g; Dâm dương hoắc 10g; Sinh địa 12g; Hắc chi ma (mè đen)12g; Trạch tả 15g; Phục linh 12g; Bạch truật 10g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài 5: “Bạch kim giáng chi phương” của Y sĩ Trần Vũ thuộc Sở nghiên cứu y học khu Nghi Xuân, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc
Uất kim 280g; Đại phàn phi 120g.
Cách chế và dùng: Xay hoặc tán 2 vị thuốc thành bột mịn, vô viên capsule 500mg. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 3 capsules (tương đương 6g/ngày) sau bữa ăn. Cứ 20 ngày là 1 liệu trình, dùng liên tục từ 2 – 3 liệu trình thì làm xét nghiệm máu.
Hiệu quả lâm sàng: Đã trị 344 ca mỡ máu cao. Kết quả, cholesterol toàn phần giảm trung bình 85.84%, triglyceride giảm trung bình 70.61mgA, beta – lipoprotein giảm trung bình 175.96%. So sánh trị số lipif-huyết thay đổi có ý nghĩa (P<0.001)
Bài này cũng dùng điều trị 170 ca béo phì, sau thời gian dùng thuốc, trọng lượng giảm trung bình 3.5kg. Mặt khác, có 138 ca dao huyết áp, sau khi dùng bài thuốc trên cũng thu được kết quả 59.4%.
Bình luận: Theo nghiên cứu dược lý, thành phần chủ yếu của Bạch phàn là Aluminium sulfate và Kalium sulfate, có tác dụng thu liễm, làm giảm mức hấp thu thành phần chất béo cholesterol. Còn tinh dầu Uất kim có tác dụng tăng tiết mật, bài tiết cholic acid (là sản phẩm chuyển hoá của cholesterol) ra ngoài bằng đường ruột và nhờ đó mà lipid – huyết hạ.
- Bài 6: “Giáng chi linh phương” của Y sĩ Lý Vĩ Thành, thuộc Trường vệ sinh khu Thường Đức, tỉnh Hồ Nam.
Hà thủ ô 15g; Trạch tả 15g; Hoàng tinh 15g; Kim anh tử 15g; Sơn tra 15g; Thảo quyết minh 30g; Tang ký sinh 30g; Mộc hương 06g.
Cách chế và dùng: Nấu cao đặc hoặc chế thành viên, ngày uống 3 lần, mỗi lần 2 muỗng canh hoặc 8 viên. Mỗi liệu trình điều trị 3 tháng.
Hiệu quả lâm sàng: Đã trị 200 ca mỡ máu cao, trong đó 145 ca cholesterol cao hơn 268mg%. Kết quả, 123 ca giảm trung bình 82/44mg% triglyceride giảm trung bình 150/15mg%.
- Bài 7: “Quế tinh phương” của Y sĩ Bạch Hồng Long, Vân Nam, Trung Quốc
Quế nhục 1 phần; Chế nam tinh 4 phần; Thảo quyết minh 4 phần; Nhộng tằm 4 phần; Hắc đậu bì 4 phần.
Cách chế và dùng: Tán thành bột mịn, chế thành viên. Ngày uống 3 – 4 lần, mỗi lần 4 -6 viên. Mỗi liệu trình điều trị 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Đã trị 158 ca cholesterol cao. Kết quả tổng quát đạt 90.5%, trong đó mỡ triglyceride giảm đến 90.5% beta – lipoprotein đạt 83.62%.
Bình luận: Công thức bài thuốc này tuy tầm thường nhưng có tác dụng ôn hoá đàm thấp, dưỡng can trừ phong. Dùng điều trị chứng mỡ máu cao thể “đàm thấp” rất tốt.
- Bài 8: “Đơn điền giáng chi hoàn” của Y sĩ Hoàng Chấn Đông thuộc Sở nghiên cứu bệnh tim mạch tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Tử đan sâm 12g; Xuyên điền thất 1,5g; Xuyên khung 09g; Trạch tả 12g; Nhân sâm 12g; Đương qui 12g; Hà thủ ô 15g; Hoàng tinh 15g.
Cách chế và dùng: Tán bột mịn, chế thành viên. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 2g vào lúc sáng và chiều tối. Mỗi liệu trình điều trị 45 ngày.
Hiệu quả lâm sàng: Đã trị 251 ca cholesterol cao. Kết quả, giảm trung bình 52.8mg%, triglyceride giảm 71.3%.
- Bài 9: “Thư tâm hoạt huyết phương” của Y sĩ Thẫm Đạt Minh thuộc Trung y học viện tỉnh Hồ Bác, Trung Quốc
Hoàng kỳ 90g; Đảng sâm 90g; Đương qui 90g; Bồ hoàng 90g; Hồng hoa 90g.
Cách chế và dùng: Đem nấu với nước, chiết lấy 2 lần nước thuốc, lọc bỏ cặn, cô đặc rồi trộn mật ong chế thành sirup 96%. Người có bệnh tiểu đường nên chế thành thuốc viên. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 30mg sirup hoặc 12g thuốc viên. Mỗi liệu trình điều trị 3 tháng.
Hiệu quả lâm sàng: Đã trị 74 ca cholesterol cao, có ca vượt chỉ số 450mg%. Kết quả, cholesterol toàn phần giảm trung bình 83.4% đặc biệt triglyceride trước điều trị cao 350mg%, sau điều trị hạ xuống còn 180mg%.
Bình luận: Bài thuốc này có tác dụng tốt đối với chứng cholesterol cao thể “khí huyết ứ”
- Bài 10: “Giáng chi phương” của Y sĩ Mã phong thuộc bệnh viện 371, Trung Quốc
Thảo quyết minh 150g; Sơn tra phiến 150g; Tử đan sâm 150g.
Các chế và dùng: Đem nghiền thành bột, chế thuốc viên, mỗi viên nặng 3g, ngày uống 3 lần, mỗi lần 3 – 4 viên. Mỗi liệu trình điều trị 1 tháng, sau 3 liệu trình đánh giá kết quả tác dụng.
Hiệu quả lâm sàng: Đã trị 64 ca cholesterol cao.
Kết quả: Cholesterol toàn phần giảm trung bình 88.3% (P<0.01) triglyceride giảm trung bình 68.1mg% (P<o.1), lipoprotein giảm trung bình 239.9mg% (P<0.01).
- Bài 11: “Sơn đơn phương” của Y sĩ Trương Thanh Bảo thuộc tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc
Sơn tra phiến 50g; Mạch nha 40g; Tử đan sâm 30g; Diên hồ sách 15g; Cam cúc hoa 15g;Hồng hoa 15g.
Sắc uống ngày 1 thang. Một liệu trình điều trị 3 tháng.
Hiệu quả lâm sàng: Đã trị 51 ca cholesterol cao, tỷ lệ thành công đạt 74.5% thường chỉ số mỡ máu hạ xuống mức trung bình trong 3 tháng.
Ý nghĩa bài thuốc: Sơn tra để thư can, Diên hồ sách để lý khí hoạt huyết, Tử đan sâm và Hồng hoa để hoạt huyết hoá ứ, Cúc hoa dưỡng can minh mục, Mạch nha để tiêu thực hoà vị. Bài thuốc có tiêu có bổ, rất an toàn.
- Bài 12: “Hạ chi phương” của bệnh Liêu Ninh, Trung Quốc
Cam thảo 30g; Câu kỷ tử 25g; Trạch tả 25g; Sài hồ 15g; Sơn tra phiến 15g; Tử đan sâm 30g; Hồng hoa 10g.
Sắc uống ngày 1 thang, mỗi liệu trình điều trị 4 tuần lễ.
Gia giảm:
– Khí hư huyết ứ gia Hoàng kỳ 30g, Sinh bồ hoàng 20g.
– Can thận âm hư gia Hà thủ ô 20g, Sinh địa 15g.
– Can dương thịnh gia Thạch xương bồ 15g, Nhân trân 10g.
– Khí trệ huyết ứ gia Xuyên khung 15g, Khương hoàng 15g.
Bình luận: Bài này, theo kinh nghiệm lâm sàng, có tác dụng nâng cao chỉ số mỡ tốt HDL – Ch (lipid – cholesterol tỷ trọng cao) rõ rệt.
- Bài 13: “Phức phương tam thất” của Trung y học viện tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc
Tam thất 03g; Sơn tra phiến 24g; Trạch tả 18g; Thảo quyết minh 15g; Hổ trượng căn 15g; Hà thủ ô 15g; Uất kim 10g; Câu kỷ tử 10g; Tử đan sâm 15g.
Sắc uống ngày 1 thang. Mỗi liệu trình điều trị 4 tuần lễ. Bài này có tác dụng làm hạ cholesterol và triglyceride khá tốt.
- Bài 14: “Thiên sơn giáng chi hợp tể” của Viện nghiên cứu Trung Y Thượng hải, Trung Quốc
Thiên trúc hoàng 05g; Sơn tra phiến 10g; Tử đan sâm 20g; Trạch tả 20g; Hà thủ ô 30g; Thảo quyết minh 30g; Bạch truật 15g; Sinh địa hoàng 06g; Hoàng tinh 15g; Kim anh tử 10g; Tang ký sinh 15g; Mộc hương 06g; Lục trà (chè xanh) 05g; Nhân sâm 03g.
Cách chế và dùng: Trước hết, sắc uống ngày 1 thang, liên tục 4 tuần. Tiếp theo, tán bột mịn chế thành viên hay hoàn, mỗi viên nặng 3g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 2 – 3 viên. Có thể dùng thuốc viên suốt thời gian điều trị cũng được. Mỗi liệu trình 3 tháng.
Hiệu quả lâm sàng: Bài thuốc này hợp được từ 4 bài “Giáng chi linh phiến, thiên sơn đơn, Trạch tả thang và Nhân sâm giáng chi hợp tễ” có tác dụng tốt đối với thể bệnh thuốc có hiệu nghiệm rõ rệt, vừa làm giảm cholesterol, triglyceride, vừa giúp hạ huyết áp do bệnh cao huyết áp và giảm cân do bệnh béo phì.
Đặc điểm: Thuốc có thể gây sôi bụng nhẹ và tiêu chảy ở một số người nhưng không ảnh hưởng đến sức khoẻ.
- Bài 15: “Bát tinh thần phương” trong sách “Thiên gia diệu phương” của Trung y
Tử đan sâm 15g; Hà thủ ô 15g; Trạch tả 15g; Thảo quyết minh 15g; Câu kỷ tử 15g; Hoàng tinh 15g; Sơn tra phiến 15g; Hổ trượng căn 15g.
Sắc uống ngày 1 thang, liên tục 2 – 3 tháng.
Hiệu quả lâm sàng: Đã điều trị 1.277 ca mỡ máu cao trên 250mg/dl. Trong vòng 3 tháng, có 1.106 ca hạ xuống mức trung bình, 113 ca phải trên 3 tháng mới đạt kết quả tương tự, số còn lại do bỏ cuộc không thể biết tác dụng.
Phân tích: Qua khảo sát trong phòng thí nghiệm, các nhà nghiên cứu y học đưa ra nhận xét về tác dụng của bài thuốc như sau:
- Sơn tra:
Có tác dụng hạ cholesterol toàn phần, hạ triglyceride, hạ beta – lipoprotein trong máu. Theo kết quả nghiên cứu dược lý ghi nhận: Cường tim, hạ áp, tăng lưu lượng máu động mạch vành, giãn mạch, chống loạn nhịp tim, hạ lipid – huyết rất rõ, giảm xơ mỡ động mạch nhờ tính năng bài tiết cholesterol nhanh chứ không phải chống hấp thu cholesterol. Sau khi uống Sơn tra, lượng enzyme trong dạ dày tăng giúp tiêu hoá tốt hơn, do lượng acid béo tăng cũng giúp cho việc tiêu thụ chất mỡ nhanh hơn, ít bị đọng lại để hình thành chứng xơ vữa động mạch. Khuyết điểm của Sơn tra là có vị chua, đối với người dạ dày thừa chất acid nên cẩn thận.
- Hà thủ ô đỏ (Xích thủ ô):
Có tác dụng hạ cholesterol huyết thanh, giảm xơ cứng độc mạnh nhờ chứa thành phần Lecithin, làm chậm nhịp tim, làm tăng nhẹ lưu lượng máu động mạch vành cải thiện tình trạng cơ tim thiếu máu, bổ huyết, hoạt huyết, nhuận trường nhẹ do dẫn chất oxymethylanthraquinone làm tăng nhu động ruột.
Nếu dùng liều đơn độc 30g có tác dụng nhuận trường, trị người già thường bị táo bón kinh niên.
- Thảo quyết minh:
Có tác dụng hạ cholesterol, triglyceride, giúp nhuận trường nhưng không gây đau bụng. Dùng liều đơn độc 30g có thể gây tiêu chảy, đầy bụng hoặc hơi buồn nôn. Khi rang chín, các tác dụng này giảm đáng kể.
- Tử đan sâm (Đan sâm):
Có tác dụng giãn động mạch vành khiến lưu lượng máu cung cấp cho động mạch vành đầy đủ hơn, cải thiện chức năng tim, giảm thiểu hiện tượng nhồi máu cơ tim, cải thiện tuần hoàn ngoại vi, chống đông máu, hạ huyết áp, chứng nhũn não, làm giảm lipid – huyết nên có tác dụng hạ cholesterol, tính bổ huyết, hoạt huyết, hoà huyết.
- Trạch tả:
Có tác dụng lợi tiểu, giảm phù nề nhờ thải natri, kali, clor và ure ra ngoài nhiều hơn. Còn có tác dụng hạ lipid – huyết rõ rệt, cải thiện chức năng chuyển hoá lipid của gan, chống gan bị nhiễm mỡ, làm giãn mạch nên cũng có tính hạ huyết áp nhẹ, chống đông máu. Tóm lại, Trạch tả trị lipid – huyết cao có hiệu quả là điều không ai nghi ngờ.
- Hoàng tinh:
Là vị thuốc bổ trong phương tẩy rửa cơ thể, vừa củng cố chính khí vừa có tính hạ huyết áp êm dịu, mạnh gân cốt, ích tỳ vị, nhờ đó mà không ngại thuốc có tác dụng công trục mãnh liệt.
- Câu kỷ tử:
Có tác dụng bồi bổ tinh tuỷ, nâng cao thể lực. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Câu kỷ tử có tác dụng hạ cholesterol toàn phần nhờ thành phần betain giúp giảm thái hoá mỡ tại gan và tăng cường tính miễn dịch cơ thể nhờ chứa thành phần Polysaccaride. Người ta thử nghiệm dùng Câu kỷ tử để trị chứng gan nhiễm mỡ, viêm gan mãn tính, ghi nhận có nhiều triển vọng nhưng chưa phải là cuộc khảo sát cuối cùng.
- Hổ trượng căn (cây đuôi hổ):
Có tác dụng hoạt huyết, lợi tiểu, giải độc, giảm đau. Nghiên cứu về dược lý, ghi nhận Hổ trượng căn có tác dụng hạ lipid – huyết, làm giảm cholesterol toàn phần, giảm triglyceride, tăng cường chức năng gan, cải thiện sự hoạt hoá nhu mô gan nên thường được dùng để trị bệnh chai gan, xơ can cổ trướng.
- Kiêng cử:
Trong chế độ ăn uống và sinh hoạt hằng ngày có 5 nhân tố xấu nên tránh hoặc hạn chế tối đa:
- Tất cả thức ăn có nguồn gốc động vật.
- Mỡ bảo hoà (gồm phần lớn mỡ động vật).
- Đường và các sản phẩm có đường.
- Rượu các loại đáng kể cả bia và rượu nho.
- Căng thẳng tinh thần (stress).
Sau đây là một vài hướng dẫn cụ thể:
- Nên:
– Chọn những thực phẩm có nồng độ cholesterol thấp gồm: Các loại cá nước ngọt, táo, chuối, cà rốt, các loại đậu, tỏi, bưởi và dầu olive ép lạnh (virgin olive oil).
– Nhớ ăn đủ lượng chất sợi (fiber) sẵn chứa trong rau quả và gạo lúa, lúa mạch, đậu, cám gạo, trái cây chín, yến mạch (oats). Qua tiến trình tiêu hoá nhờ đặc tính hoà tan được trong nước, các chất này làm giảm cholesterol trong huyết tương.
– Thường xuyên uống nước rau quả tươi (fresh juices), đặc biệt cà rốt, rau cần tây, củ dền. Hợp chất này giúp chùi rửa chất mỡ lắng động trong gan, mật, đồng thời thải chúng ra ngoài theo nước tiểu và phân.
– Chỉ chọn dầu ăn ép lạnh hoặc chưa tinh lọc. Bởi vì qua tiến trình đun nấu để tinh lọc dầu ở nhiệt độ 110 độ F trở lên, các thành phần enzymes hữu ích chứa trong dầu ăn đều bị phá huỷ, biến thành chất độc có hại cho sức khoẻ.
– Chỉ dùng các loại dầu ăn được hoá lỏng ở nhiệt độ thấp như: Dầu cải, dầu olive, dầu đậu nành, dầu lanh (flaxseed oil), dầu anh thảo (primrose oil) và dầu hạt nho đen của Hy Lạp (black currant seed oil). Hiện nay, dầu olive ép lạnh (pure virgin olive oil) được ưa chuộng nhất nhờ tác dụng làm hạ mức cholesterol trong huyết tương. Sở dĩ dân Ý, Hy Lạp có chỉ số cholesterol thấp hơn các dân tộc Pháp, Đức, Hoa Kỳ là nhờ thói quen dùng dầu olive sơ chế hằng ngày.
– Thường xuyên tập thể dục, chơi thể thao hợp với thể lực và tình trạng sức khoẻ cho phép. Đi bộ 45 – 60 phút/ngày, 5 lần một tuần, là một trong những phương pháp làm giảm cholesterol an toàn và phổ biến nhất vì dễ thực hành, không tốn kém, ít mất sức.
- Không nên hoặc hạn chế tối đa:
– Không ăn bất kỳ loại nào ngoại trừ hạt hồ đào (walnuts) còn gọi là quả óc chó. Nếu ăn hạt hồ đào, cũng chỉ dùng tươi sống, không dùng loại đã được nướng hay rang chín. Thậm chí, Bác sĩ Phyllis A. Balch, một chuyên viên nhành hoá thực phẩm Hoa Kỳ, còn khuyên chúng ta từ chối luôn cả những hạt hồ đào đã lột vỏ sẵn đang bán trong các siêu thị.
– Giảm tiêu thụ tối đa nguồn mỡ bảo hoà (saturated fat) và cholesterol. Mỡ bảo hoà hiện diện trong tất cả các loại mỡ động vật, cơm dừa, dầu dừa (coconut oil), dầu cọ (palm kernel oil). Hãy tránh xa mỡ heo, mỡ bò, mỡ gà, da gà, đồ lòng, bơ thực bật (margarine) vì sẵn chứa chất mỡ xấu (LDL) và triglyceride khá cao
– Tránh uống rượu mạnh, rượu bia, bánh ngọt, kẹo, nước ngọt có chứa carbonate, cà phê, nước xốt (gravies), trà, thuốc lá và cả bánh mì trắng.
- Nhận thức vàng ngọc:
– Muốn sức khoẻ tốt, lành mạnh, phải giữ nồng độ cholesterol toàn phần dưới 20mg/dl, trong đó mức mỡ tốt (HDL) không dưới 45 – 50mg/dl ở nam giới và 70 – 80mg/dl ở nữ giới, càng cao hơn càng có lợi cho tim mạch.
– Thịt động vật và thực phẩm bơ sữa (dairy products) là đầu mối, tác nhân gây ra vấn đề cholesterol trong máu tăng cao, trong khi rau xanh và trái cây chín thì không có cholesterol.
– Có thể dùng bơ thực vật (margarine vegetable shortening) để thay thế bơ động vật (butter) vì không có cholesterol. Tuy nhiên, các sản phẩm này lại chứa một số acid béo dễ biến tính. Gặp nhiệt, đun nóng, các acid béo này sẽ bị oxy hoá và có thể lấp kín các động mạch sau khi chúng ta ăn vào.
Ngoài ra, loại “cis and trans – fatty acids” này còn có liên hệ đến việc hình thành gốc tự do (free radicals), nhân tố tạo ra ung thư (cancer).
– Uống nhiều cà phê có thể làm mức cholesterol trong máu tăng lên dẫn tới nguy cơ mắc bệnh tim mạch tăng gấp 2 lần hơn người không uống hoặc uống ít. Theo thống kê của tạp chí y khoa “The New Enland Journal of Medicine” tiết lộ: 15,000 người nghiện cà phê, sau khi làm xét nghiệm, đều có chỉ số cholesterol trong máu tăng cao đáng kể.
– Chất béo (fats) cung cấp năng lượng (energy), tồn động trong ống tiêu hoá lâu hơn chất đạm và chất bột đường, cho cảm giác no đủ. Chúng tác động như một chất bôi trơn (lubricant) trong đường ruột, sinh ra nhiệt lượng và dung nạp các loại sinh tố hoà tan trong mỡ như: Vitamin A, D, E và K, đồng thời bảo vệ màng myelin trong chức năng bảo hộ sợi thần kinh. Tuy vậy, cơ thể không cân nhiều chất béo. Muón dùng phải chọn đúng loại chất béo không bảo hoà (unsaturated fats). Nếu không, ngoài nguy cơ làm tăng cholesterol trong máu, chúng còn liên hệ đến bệnh béo phì, bệnh về tim mạch và chắc chắn gay ra nhiều loại ung thư.
– Nhiều loại chất béo được các nhà hàng sử dụng để làm hamburgers, chiên cá, chiên gà và khoai tây theo kiểu Pháp thường là mỡ bò. Nó không chỉ bất lợi về mặt làm tăng cholesterol trong máu mà còn tạo ra chất độc khi đun ở nhiệt độ cao dẫn tới việc hình thành gốc tự do là chất gây ung thư.
– Tập thư giãn, tránh rơi vào tình trạng căng thẳng thần kinh (stress) và cao huyết áp thường trực. Một người vừa cao cholesterol vừa cao huyết áp thì nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao gấp 3 lần so với người chỉ mắc 1 bệnh.
Bài thuốc Đông y trị mỡ máu cao mang tính chất tham khảo độc giả không nên tự ý bốc thuốc uống khi cần phải gặp bác sĩ đông y để được thăm khám và kê toa. Quý khách có nhu cầu thăm khám và tư vấn miễn phí vui lòng liên hệ:
Thiện Minh Y Quán
ĐC: B14/12/9, Cây Cám, Tân Vĩnh Lộc, TPHCM
ĐT & Zalo: 0904 890 895 – Website: www.thienminhyquan.com