Đến giai đoạn chấm dứt kinh nguyệt, tức là giai đoạn không còn khả năng sinh sản nữa, cuộc sống của người phụ nữ lớn tuổi bắt đầu xuất hiện nhiều dấu hiệu bất an, lắm khi tệ hại. Một số ít phụ nữ đón nhận thời kỳ mãn kinh khá bình thản trong khi phần lớn bày tỏ sự kinh hãi tột cùng.
Hầu hết kinh nguyệt (menses) sẽ ngưng một cách tự nhiên khi người phụ nữ bước vào khung tuổi từ 45 – 60 tuổi với chu kỳ nội tiết tố nữ (estrogen) sản xuất hàng tháng có khuynh hướng cạn dần. Tuy vậy, tiến trình mãn kinh có thể xảy ra sớm hơn nếu như người phụ nữ thường hay đau yếu, phẫu thuật cắt bỏ tử cung (uterus) cắt bỏ cả hai buồng trứng (ovaries), chứng biến ăn (anorexia) hoặc phàm ăn (bulimia) và tình trạng suy nhược, căng thẳng thần kinh.
- Tiến trình sinh lý:
Trong khoảng thời gian từ 5 năm hoặc dài hơn một chút trước thời kỳ mãn kinh, còn gọi là thời kỳ tiền mãn kinh (perimenopause) buồng trứng ngày càng trở nên mất tính nhạy cảm với các tín hiệu của hormone đóng vai trò kích hoạt sản xuất nội tiết tố sinh dục estrogen và progesterone. Tiến trình này thường bắt đầu vào lúc người phụ nữ ở lứa tuổi 42 – 55 và gây ra một số bất trắc nhưng buồng trứng vẫn còn lưu giữ hằng nghìn trứng non (immature eggs). Tuy thế, số trứng này là “trứng lép” nghĩa là trứng không thể trưởng thành để tiếp tục thực hiện việc rụng trứng như thời còn con gái. Buồng trứng trở nên bất lực không sản xuất đủ số lượng estrogen cần dùng và chu kỳ kinh nguyệt bị rối loạn. Cuối cùng, chu kỳ kinh nguyệt ngừng lại vĩnh viễn.
Đúng vào thời điểm này, nhiều biến cố về mãn kinh xuất hiện.
Về lãnh vực y khoa, các Bác sĩ thật sự quan tâm đến giai đoạn mãn kinh là khi nào chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ lớn tuổi ngưng hoạt động liên tiếp từ 12 tháng trở lên và khi thử máu thấy mức thang kích hoạt hormone (follicle – stimilating hormone – FSH) tăng cao còn mức nội tiết tố nữ (estrogen) tại thấp. Bình thường, một người phụ nữ sống các quốc gia công nghiệp và văn minh phương Tây, có thể đã phải tiêu phí hết khoảng 1/3 cuộc đời mình vào vấn đề lo toan cho giai đoạn mãn kinh và hậu mãn kinh (postmenopause).
Theo thống kê, thời kỳ mãn kinh lệ thuộc vào nhiều yếu tố: Sức khoẻ, chủng tộc, đời sống vật chất, tinh thần, tâm lý. Thời gian có thể ngắn ngày từ 5 – 7 tháng nhưng cũng có thể kéo dài 1 – 2 năm hoặc lâu hơn tới 10 -12 năm.
- Triệu chứng:
Mãn kinh ở phụ nữ mà không gây rối loạn là một chỉ dấu nổi bật, vô cùng quý giá, nhưng rối loạn cũng là một phần tự nhiên trong cuộc đời. Dù thế nào, có những triệu chứng bất bình hay nhạy cảm với mọi sự vật chung quanh hì cũng nên thu xếp sao cho cơn tức giận phát điên giảm xuống dần ở cường độ phiền não êm dịu và tiếp đến là trạng thái hoàn toàn tỉnh táo, cởi mở, hoà bình. Có rất nhiều dấu hiệu biểu lộ tính chất “nổi loạn” ở phụ nữ mãn kinh không tự kiểm soát nỗi.
– 50 – 80% cảm nhận hiện tượng nóng phừng mặt (hot flashes).
– Huyết áp tăng, mặt đỏ như tô son, nóng bức phải quạt liên hồi.
– Thường xuyên đau đầu, chóng mặt, mệt nhọc, uể oải, mất ngủ.
– Hay ra mồ hôi, đổ mồ hôi trộm, tay chân tê rần như có kiến bò.
– Hồi hộp, hay quên, hay khóc, hay giận hờn, cáu gắt, la rầy vô cớ.
– Âm đạo khô dần do các tuyến giảm xuất tiết chất nhờn.
– Không còn thích thú giao hợp vì cơ âm đạo teo, gây đau đớn.
– Dễ bị viêm âm đạo vì kháng sinh tự nhiên tại chỗ không còn.
– Da bắt đầu khô, nhăn nheo vì nội tiết tố estrogen không còn.
– Dễ bị gãy xương nhất là xương hông, đùi, do hậu quả loãng xương.
– Ảnh hưởng không nhỏ đến mạch máu, gây ra một số bệnh về tim.
- Luận lý Đông y:
Đông y học, đặc biệt Trung Y, đã sớm biết những biến động về tâm sinh lý của giới phụ nữ vào thời kỳ mãn kinh. Trong “Hoàng Đế Nội Kinh”, bộ sách y khoa cổ đại của Trung Y ra đời cách nay hơn 4.600 năm tại Chương III, phần, Sinh lý viết:
“Nữ tử thất tuế, thận khí thịnh, si canh phát trường. Nhị thất nhi thiên – quý chí, nhâm mạch thông. Thái Xung mạch thịnh, nguyệt sự dĩ thời hạ, cố hữu tử cam thất thận khí bình quân, cố chân nha sinh trường cực. Tứ thất cân cốt kiên, phát trường cự, thân thể thịnh tráng. Ngũ thất dương minh mạch suy, diện thuỷ tiêu, phát thuỷ đoạ. Lục thất tam dương mạch suy u thượng, diện giai tiêu, phát thuỷ bạch. Thất thất thiên quỷ kiệt, Nhâm mạch hư, Thái xưng mạch suy, địa đạo bất thông, cố hình hoại nhi vô tử”
Tạm dịch:
“Con gái 7 tuổi khí trạng Thận thịnh, thay răng dài tóc, đến 14 tuổi thì Thiên quý đến (Thiên quý chỉ phần huyết của con gái và tinh khí của con trai ở đây chỉ đường kinh nguyệt), mạc Thái Xung thịnh, đường kinh nguyệt tới lúc hành cho nên có con. Đến 21 tuổi khí tạng Thận quân bình nên răng cấm mọc dài đúng mức. Vào tuổi 28, gân xương bền chắc mà tóc dài đúng mức, thân thể khoẻ mạnh. Đến 35 tuổi, mạch kinh Dương Minh suy, da mặt bắt đầu nhăn, tóc bắt đầu rụng. Tới 42 tuổi, 3 mạch Dương kinh suy ở phần trên, các cơ quan trên mặt nhăn nheo, tóc bắt đầu bạc. 49 tuổi đường kinh nguyệt hết, mạch Nhâm hư, mạch Thái xung suy, đường địa đạo (chỉ mạch đạo ở hạ bộ thuộc kinh Túc Thiếu âm Thận) không thông, cho nên hình thể hư hoại mà không có con”.
Đoạn y văn vừa trích dẫn chứng minh giới y học Trung Hoa thời thượng cổ biết rõ phụ nữ đến 49 tuổi thì mãn kinh với những dấu hiệu như mạch Thái xung suy kiệt dần (chỉ công năng nội tiết tố của buồng trứng ngưng hoạt động) dẫn tới nhiều xáo trộn, đồng quan điểm với “hội chứng tiền mãn kinh” của Y học hiện đại.
Đông y nhận định rằng phụ nữ mãn kinh là do chức năng tạng Thận giảm hoạt động, bị lão hoá và suy yếu, khiến cho Âm Dương mất quân bình gây rối loạn dây chuyền tới các tạng phủ khác. Do vậy, việc trị liệu phải mang tính toàn diện cả về vật chất lẫn tinh thần nhằm phục hồi và duy trì sự cân bằng Âm Dương. Đông y phân chia hội chứng tiền mãn kinh thành 3 thể bệnh “Thận âm hư”, “Thận dương hư” và “Đàm trệ huyết ứ”.
- Thể “Thận âm hư”
Thể này có 2 chứng trạng “Âm hư nội nhiệt” và “Can hoả vượng”. Về mặt chẩn đoán, nếu thiếu kinh nghiệm rất khó phân biệt:
- Chứng “Âm hư nội nhiệt” gồm các hiện tượng:
– Kinh nguyệt tới sớm, lượng kinh ít, nếu tới trễ thì lượng kinh nhiều.
– Hoặc tắc kinh đột ngột, vĩnh viễn.
– Đau đầu, chóng mặt, hoa mắt.
– Nóng phừng lên mặt, bứt rứt tiểu vàng.
– Ra mồ hôi đầm đề, đổ mồ hôi trộm.
– Miệng khô, táo bón, da nóng như lửa.
– Lưng đau, gối mỏi, lười nói, dễ cáu gắt.
– Lưỡi đỏ, rêu ít, mạch đi Tế Sách.
- Chứng “Can hoả vượng” với các hiện tượng:
– Kinh nguyệt rối loạn, tháng có tháng không.
– Sắc kinh đen bầm, đậm đặc, lúc nhiều lúc ít.
– Cảm thấy bứt rứt, bồn chồn, nóng nảy, dễ cáu gắt.
– Chóng mặt, đau đầu, mắt khô rít, ngực sườn đau xốc.
– Tay chân run, tê rần như có kiến bò, mất ngủ, hay mơ.
– Rìa lưỡi đỏ, mạch đi Huyền Sắc.
- Thể “Thận dương hư”
Thể này có một số biểu hiện ngược lại so với thể “Thận âm hư”.
– Kinh nguyệt ra nhiều hoặc tới sớm hơn.
– Tạng thể người thường béo mập, hay phù.
– Tay chân mát lạnh, sợ lạnh.
– Mệt mỏi, nước tiểu trong, tiểu nhiều
– Sắc lưỡi nhạt, rêu trắng, mạch đi Trầm nhược.
- Thể “Đàm trệ huyết ứ”
Thể này thường diễn ra vào giai đoạn sắp hết kinh với một số biểu tị khá rõ nét, dễ nhận:
– Thân thể phần lớn thuộc dạng mập mạp.
– Dễ tăng cân, kiêng ăn cũng lên cân.
– Tay chân nặng nề, tê dại, nặng đầu, ngực đau.
– Mệt mỏi, bứt rứt, hòi hộp, mất ngủ.
– Lưỡi bệu, rêu dày, mạch đi Trầm Hoạt.
- Điều trị:
Dựa vào cơ sở “chứng” và “mạch”, Đông y có nhiều kinh nghiệm để trị hội chứng tiền mãn kinh ở phụ nữ. Sau đây là một số bài thuốc tiêu biểu.
- Bài 1:
– Triệu chứng: Phụ nữ thời kỳ tiền mãn kinh cảm thấy xoàng đầu, hoa mắt, bứt rứt, dễ nổi giận, tính tình bất ổn, lòng bàn tay bàn chân nóng, hồi hộp, ù tai, sốt về chiều, gò má đỏ, miệng khô, đổ mồ hôi trộm, mất ngủ, kinh ra nhiều hoặc rỉ rả không dứt, mạch đi Huyền Tế.
– Biện chứng Đông y: Do Âm hư nội nhiệt.
– Pháp trị: Tư âm bổ Thận, tiềm dương, định tâm an thần.
- Bài thuốc: “Lục vị địa hoàng thang gia giảm”
Công thức:
Sinh địa 30g; Hoài sơn 15g; Sơn thù nhục 12g; Phục linh 12g; Trạch tả 12g; Mẫu đơn bì 12g; Địa cốt bì 12g; Thạch quyết minh 20g; Qui bản 15g; Long cốt 15g; Mẫu lệ 15g; Sa uyển tử 12g; Tật lê tử 12g; Bạch thược (sao rượu) 12g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Bàn luận: Bài này dùng “Lục vị địa hoàng” làm chủ vị là nhầm bình bổ tam âm, lui hư hoả, dùng Thạch quyết minh. Qui bản, Long cốt, Mẫu lệ để vừa làm mạch chân âm vừa tiềm dương, dùng Bạch thược để hoà vinh; Tật lê tử có công năng tư Thận tráng Thuỳ chế ngự Dương cương. Nhờ đó mà quân bình được Âm dương, tiêu trừ các chứng phát sinh.
- Bài 2:
– Triệu chứng: Phụ nữ thời kỳ tiền mãn kinh mất ngủ, hồi hộp, đổ mồ hôi trộm, má đỏ, dễ giận, thỉnh thoảng có những cơn nóng phừng lên mặt, bứt rứt không yên.
– Biện chứng Đông y: Thận âm suy, hư hoả thịnh.
– Pháp trị: Tư thận, định tâm an thần.
- Bài thuốc: “Thiên vương bổ tâm đơn gia giảm”
Công thức
Sinh địa 20g; Huyền sâm 12g; Đảng sâm 12g; Đan sâm 12g; Phục thần 12g; Kiết cánh 06g; Chích viễn chí 10g; Hắc táo nhân 15g; Bá tử nhân 10g; Thiên môn đông 10g; Đương qui (sao rượu) 10g; Ngũ vị tử (sao) 03g.
Sắc uống ngày 1 thang. Có thể tán bột mịn, luyện với mật ong làm hoàn nhỏ bằng hạt bắp, áo bên ngoài bằng bột Chu sa, sấy khô để dùng dần. Ngày uống 5 hoàn trước khi đi ngủ.
- Bài 3:
– Triệu chứng: Thời kỳ tiền mãn kinh mà thấy kinh kỳ tới sớm, lượng kinh ít, sắc đỏ, đặc dính, tinh thần mỏi mệt, váng đầu, ù tai, mất ngủ, hay quên, tình chí bất ổn, dễ cáu gắt, hồi hộp, lòng bay bàn chân nóng.
– Biện chứng Đông y: Do Thận âm bất túc, Dương can hoả thịnh, Tâm can bất hoà.
– Pháp trị: Bổ âm ích thận, điều kinh an thần, hàm mộc tiềm dương.
- Bài thuốc: “Gia giảm ích thận thang” của Lăng Thảo Bách, một danh y của tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc
Công thức:
Sa sâm 20g; Hoài sơn 20g; Thục địa 20g; Câu kỷ tử 20g; Sung uý tử 20g; Tang thầm tử 15g; Hạn liên thảo 15g; Trân châu mẫu 15g; Nữ trinh tử 15g; Thạch quyết minh 15g; Hạ khô thảo 15g; Bá tử nhân 12g; Dạ giao đằng 12g; Hắc táo nhân 12g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài 4:
– Triệu chứng: Phụ nữ thời kỳ tiền mãn kinh rối loạn kinh nguyệt, hành kinh muộn từ 7 ngày đến 1 tháng hoặc lâu hơn, lượng kinh ít dần dà không còn thấy kinh nữa, váng đầu, ù tai, mỏi, mệt, lưng gối yếu mỏi, tay chân lạnh, sợ lạnh, sắc mặt u tối.
– Biện chứng Đông y: Do khí huyết bất túc, Dương khí hư suy.
– Pháp trị: Ôn dương, bổ khí hoà huyết, điều kinh, bình định thần trí.
- Bài thuốc: “Thôi thị trợ dựng phương” của Thôi Ngọc Hành, Y sư thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc
Công thức:
Hương phụ (sao giấm) 20g; Thục địa 15g; Bạch thược 15g; Dâm dương hoắc 15g; Đương qui 15g; Xuyên khung 10g; Tiêu mao 06g; Chích cam thảo 06g; Trầm hương 05g.
Sắc uống ngày 1 thang,
- Bài 5:
– Triệu chứng: Phụ nữ thời kỳ tiền mãn kinh, lượng kinh ít dần rồi bế kinh, hình thể mập mạp, đẫy đà, có khi phù thủng, đới hạ ra nhiều, ngực bụng nặng nề khó chịu, buồn nôn, ăn không ngon miệng, rêu lưỡi nhớt.
– Biện chứng Đông y: Do đàm tấp nghẽn tắc không thông.
– Pháp trị: Kiện tỳ, trừ thấp hoá đàm, hành khí hoạt huyết.
- Bài thuốc: “Hoá thấp điều Xung thang” của Hà Tử Hoài, Y sư thuộc Trung y viện thành phố Hàng Châu, Trung Quốc
Công thức:
Sơn tra phiến 30g; Chế bán hạ 12g; Trần bì 10g; Trạch tả 15g; Đại phúc bì 15g; Sinh ý dĩ nhân 30g; Phục linh 15g; Bình địa mộc 30g; Thương truật 10g; Sinh khương bì 10g; Thiên trúc hoàng 15g; Chế nam tinh 12g; Tang bạch bì 15g; Nhục quế 04g; Chế ma hoàng 03g; Kê quan hoa 15g; Xuyên tỳ giải 20g.
Sắc uống ngày 1 thang. Trong bài này gia thêm Thiên trúc hoàng, Nam tinh, Tang bạch bì là để tiêu đàm, Nhục quế, Ma hoàng vừa để ôn dương, khứ hàn lại có hiện tượng cơ bắp căng trướng, Kê quan hoa, Tỳ giải để trị bạch đới.
Bài thuốc mang tính chất tham khảo độc giả không nên tự ý bốc thuốc uống khi cần phải gặp bác sĩ đông y để được thăm khám và kê toa. Quý khách có nhu cầu thăm khám và tư vấn miễn phí vui lòng liên hệ:
Thiện Minh Y Quán
ĐC: B14/12/9, Cây Cám, Tân Vĩnh Lộc, TPHCM
ĐT & Zalo: 0904 890 895 – Website: www.thienminhyquan.com