Ho theo sách Medical Dictionary của nhà Xuất bản Webster’s Hoa Kỳ định nghĩa: “Ho là tiếng nổ bộc phát thình lình bởi lực khí đẩy qua thanh môn (glottis), do tác nhân cơ học hay hóa học kích thích khí quản (trachea) hoặc phế quản (bronchi) hoặc do áp suất từ những cấu trúc lân cận.
Về Đông y Học, ho là một trong những chứng bệnh hàng đầu được phổ cập trong các y văn cổ truyền và đường như không có quyển sách Đông Y nào phân tích chứng ho ít mỉ bằng sách Nội Kinh. Theo Nội Kinh, ho tụy do phế vì phế chủ khí mà sinh ra tiếng, nhưng khi phát bệnh có chỗ khác nhau, nên được phân thành 10 chứng để biết rõ cách điều trị.
– Ho có tiếng mà không đờm là “Khái”, bởi phế tổn thương, không mát.
– Ho không tiếng mà có đờm là “Thấu”, vì thế khí tổn thương và Tỳ thấp động.
– Ho do Phong hàn thì ngạt mũi, khản tiếng, sợ gió, ghét lạnh, đổ mồ hôi.
– Ho ban đêm nhiều hơn ban ngày là do Phong hàn uất nhiệt ở Phế.
– Ho do đờm là khi ho có tiếng khò khè, khạc ra được đờm thì hết ho.
– Ho có tiếng mà ít đờm, mặt đỏ là do hỏa uất.
– Ho khan là do hỏa uất nặng, nhiệt nung trong phổi, là chứng khó trị.
– Ho lao thì đờm nhiều, phát cơn nóng lại vãng lai, đổ mồ hôi trộm.
– Do ho sưng phổi, hể cử động thì ngực đầy ức, khó thở.
Nói đến ho, Đông y học có một số từ ngữ chuyên môn nhằm xác định hệ quả như:
– “Khái thấu” chỉ chứng ho có đàm, còn gọi là “Đàm thấu”.
– “Khái thấu đàm thịnh” là chứng ho nhiều đàm.
– “Khái huyết” là do ho ra máu.
– “Khái nghịch thương khí” chỉ một trạng thái ho khó thở.
– “Khái thấu thất âm” là ho làm mất tiếng.
– “Chỉ khái” là làm ngừng ho.
Như đã trình bày ở phần mở đầu ho có nhiều nguyên nhân tác động nhưng các thầy thuốc Đông Y quy vào 2 nguyên nhân chính:
– Do ngoại cảm, Y học hiện đại gọi là “Viêm phế quản cấp”, chủ yếu do cảm nhiễm bởi phong hàn hay phong nhiệt.
– Do nội thương, Y học hiện đại gọi là “Viêm phế quản mãn”, chủ yếu do phế âm hư hoặc tỳ dương hư sinh đờm gây ho.
- Do ngoại cảm:
Phong, hàn, táo, nhiệt, xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp hay lỗ chân lông (thuộc bì mao) làm bế tắc phế khí. Hễ tắc thì sinh uất, đi ngược lên sinh ra khái thấu.
- Thể phong hàn khái thấu
- Triệu chứng
– Ho, ngạt mũi, mũi chảy trong, hắt hơi, đờm lỏng.
– Phát sốt, sợ lạnh, không đổ mồ hôi, đau đầu, đau xương.
– Rêu lưỡi màu trắng, mạch đi phù.
- Phân tích
– Do phong hàn phạm vào phế kinh làm chướng ngại khí quản, làm bế tắc đường lưu thông ra vào của khí nên gây ho, ngạt mũi, mũi chảy nước trong.
– Do hàn tả vít lấp bên ngoài nên phát sốt, sợ lạnh, đau đầu, đau xương, đau mình, không có mồ hôi.
- Pháp trị
– Sơ phong, tán hàn.
– Thông phế khí, hóa đờm.
- Bài thuốc
- Bài số 1: Ngứa họng ho đờm, khí nghịch làm khan tiếng, mạch đi Phù.
Tang diệp 10g; Hạnh nhân 10g; Chỉ xác (sao) 10g; Cam thảo 10g; Tiền hồ 10g; Kiết cánh 10g.
Sắc uống ngày 1 thang
- Bài số 2: Khái thấu mà miệng khi họng ngứa, ho mửa ra đờm rãi.
Hạnh nhân 12g; Trần bì 12g; Chế bán hạ 12g; Cát cánh 10g; Tiền hồ 12g; Phục linh 12g; Cam thảo 03g; Tỳ bà diệp 12g; Tô ngạnh 10g.
Sắc uống ngày 1 thang
Gia giảm:
– Nếu có triệu chứng vừa nóng vừa lạnh (hàn nhiệt vãng lai), bỏ vị Tô ngạnh, gia Sài hồ 12g.
– Miệng đắng, gia Hoàng cầm 10g.
– Ngực bức bối khó chịu, gia Chỉ xác 12g.
– Nếu lên cơn suyễn thở, bỏ vị Sài hồ, gia thêm Tô ngạnh 10g, Hậu phác 10g.
– Nếu khạc đờm dính, gia Hải cáp phấn (bột vỏ sò nung) 10g, Hải phù thạch (đá núi lửa nằm dưới đáy biển) 10g.
– Ho lâu ngày, Tử uyển 12g, Khoản đông hoa 12g.
- Bài số 3: Ho mửa đờm trắng loảng, chảy nước mũi trong, sợ lạnh, đau mỏi cơ thể.
Kính giới hoa 06g; Tiền hồ 10g; Bạc hà 06g; Tô điệp 06g; Hạnh nhân 10g; Cam thảo 10g; Kiết cánh 06g; Ma hoàng 02g; Xích thược 10g; Chế bán hạ 10g; Quất hồng bì 10g.
Sắc uống ngày 1 thang
- Bài số 4:
Kinh giới 10g; Phòng phong 10g; Tang diệp 10g; Đạm đậu xị 12g; Khương hoạt 10g; Độc hoạt 10g; Tiền hồ 06g; Trần bì 06g; Bạc hà diệp 06g (cho vào sau); Hạnh nhân 10g; Chỉ xác (sao) 06g; Tô diệp 06g; Sinh khương 02 lát.
Sắc uống ngày 1 thang
Gia giảm:
– Nếu hay ợ hơi, bụng trướng đầy thì gia Trần khúc 10g, Chỉ thực (sao) 10g, Lai phụ tử 12g.
– Nếu đã bị hen suyễn nay lại cảm nhiễm phong hàn ho đàm và lên cơn ho suyễn thì giam thêm Bạch giới tử (sao) 06g, Tử tô tử (sao) 06g, Lai phục tử (sao) 06g, Chế hậu phác 10g.
– Nếu họng đau khó nuốt, amidan sưng đỏ, hãy giảm bớt phân nửa lượng Sinh khương, Tô diệp, Kinh giới, Phòng phong, Khương hoạt, Độc hoạt, gia thêm Liên kiều 10g, Kim ngân hoa 10g, Ngưu bàng tử 10g, Dã cúc hoa 10g, Truyền thoát 06g, Cát cánh 06g, Mã bột 03g.
– Với người sốt nặng, gia thêm Hoàng cầm 06g, Xuyên hoàng liên 03g.
Kinh nghiệm lâm sàng: Nguyễn Trí Huân 24 tuổi, bị nhiễm trùng đường hô hấp trên, ho có đàm. Mũi nghẹt tắc, buồn nôn, rêu lưỡi trắng mỏng. Cho uống bài thuốc này (có tên là “Kinh phòng bài độc thang gia giảm”) chỉ 1 thang là khỏi bệnh.
- Bài số 5:
Ma hoàng 20g; Quế chi 20g; Bạch thược 20g; Can khương 20g; Tế tân 20g; Ngũ vị tử 20g; Đại táo 20g; Cam thảo 20g; Chế bán hạ 20g; Ma hoàng 10g; Chế bán hạ 12g; Bạch thược 12g; Sinh thạch cao 120g.
Sắc uống ngày 1 thang. Nước nhất, đổ 6 bát nước, sắc còn 1 bát 4 phân, chia uống 2 lần. Nước nhì, đổ 4 bát nước, sắc còn 7 phân, uống 1 lần. Bài thuốc này, Y học hiện đại dùng trị 100 ca “viêm phế quản cấp thể hàn ẩm” đều khỏi bệnh, trung bình 2 – 3 thang.
Ghi chú:
– Thang thuốc có vị Tê tân, nếu gặp người bệnh có thể suy nhược nên giảm còn 10g.
– Theo kinh nghiệm lâm sàng, đây là một trong những bài thuốc đặc hiệu nhất trị “Viêm phế quản cấp tính” thể Phong hàn.
- Bài số 6: Sẵn có bệnh suyễn mà nhiễm thêm chứng phong hàn khái thấu.
Tô điệp 15g; Sinh bạch truật 15g; Tiền hồ 15g; Xa tiền tử 30g.
Sắc uống ngày 1 thang
- Nếu suyễn thở nặng gấp, có thể đổi sang bài thuốc sau đây:
Tang diệp 10g; Cúc hoa 10g; Tỳ bà diệp 12g; Trúc nhự 12g; Quế chi 10g; Chích cam thảo 10g; Chế hậu phác 06g; Hạnh nhân 12g; Ngũ vị tử 10g; Xa tiền tử 30g; Sinh khương 03 lát; Đại táo 10 quả.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài số 7: Khái thấu lại kiêm chứng khát nước, tâm phiền là có cả chứng lý nhiệt
Liên kiều 12g; Hạnh nhân 10g; Tiền hồ (nướng) 10g; Bạch tiền (nướng) 10g; Quảng trần bì 06g; Kính giới hoa 06g; Cam thảo 03g.
Sắc uống ngày 1 thang
- Bài số 8: Phong hàn uất ở Phế mà khái thấu lâu ngày không ngưng, nên dùng phương thang dưới đây để tân ôn sơ tán, tuyên phế chỉ khái:
Chỉ xác 12g; Qua lâu xác 10g; Bạc hà diệp 10g; Chế bán hạ 10g; Sa sâm 10g; Xạ can 10g; Hạnh nhân 10g; Kiết cánh 10g; Trần bì 06g; Ngũ vị tử 06g; Tế tân 03g; Cam thảo 03g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài số 9: Nếu biểu tà đã giảm, hàn nhiệt đã lui, chỉ riêng khái thấu là tồn tại, cứ ngứa họng phát ho, sáng thức dậy ho nặng hơn, ho khó khạc đờm, tác mũi, ngực khó chịu là do đờm vít lấp Phế kinh, nên dùng thang dưới dây để tuyên Phế khư đờm chỉ khái:
Sa sâm 10g; Hạnh nhân 10g; Hoài sơn 10g; Triết bôi mẫu 10g; Mã đâu linh 06g; Ngưu bàng tử 06g; Kiết cánh 06g; Chỉ xác 06g; Bạch vi 06g; Quất hồng bì 06g; Cam thảo 03g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Thể phong nhiệt khái thấu
- Triệu chứng:
– Ho, đờm vàng đặc, chảy nước mũi.
– Họng sưng đỏ, nuốt khó, đau.
– Khát nước, mình nóng, sợ gió, đổ mồ hôi.
– Đau đầu, đau mình như cúm.
– Lưỡi vàng hoặc trắng, mạch đi phủ sắc.
- Phân tích:
– Phong nhiệt phạm vào phế làm bế tắc phế khí.
– Vĩnh huyết, vệ khí bị xáo trộn, mất điều hòa.
- Pháp trị:
– Sơ phong, thanh nhiệt.
– Tuyên phong phế khí, ngừng ho.
- Bài thuốc:
- Bài số 1:
Tang diệp 12g; Cam cúc hoa 10g; Liên kiều 12g; Bạc hà diệp 08g; Kiết cánh 08g; Hạnh nhân 10g; Lô căn 12g; Cam thảo 03g; Ngưu bàng tử 10g; Tiền hồ 06g.
Sắc uống ngày 1 thang
- Bài số 2:
Hoàng cầm 10g; Mã đâu linh 12g; Ngưu bàng tử 10g; Kiết cánh 10g; Cam thảo 03g.
Sắc uống ngày 1 thang
- Bài số 3:
Đại thanh diệp 30g; Tử thảo 60g; Lô căn 20g; Kinh giới 10g; Tử uyển 10g; Bách bộ 12g.
Sắc uống ngày 1 thang, trẻ con mỗi thứ 30g là vừa. Trước khi sắc đem thuốc ngâm nước ấm khoảng 1 giờ rồi sắc nhỏ lửa, chờ sôi 3 – 5 phút là được (tránh sắc lâu thuốc giảm công hiệu). Bài này đã trị 86 trường hợp ngoại cảm phong nhiệt khái thấu, Y học hiện đại gọi là “nhiễm khuẩn – virus – đường hô hấp trên”, trung bình 1 – 2 thang là dứt bệnh. Có vài trường hợp kéo dài thời gian điều trị hơn nhưng không quá 5 thang. Theo kinh nghiệm lâm sàng, đây là một bài thuốc thuộc loại “kinh điển”, đáng ghi vào sổ tay của người thầy thuốc.
- Bài số 4: Nếu họng ngứa ho khan, ho nặng về đêm lâu ngày không dứt thì dùng bài thuốc dưới dây:
Tiền hồ 12g; Bạch tiền 10g; Chế bán hạ 10g; Triết bôi mẫu 10g; Hạnh nhân 10g; Ngưu bàng tử 10g; Bạch cương tằm 10g; Liên kiều 10g; Kiết cánh 06g; Quất hồng bì 06g; Cam thảo 03g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Trong thể Phong nhiệt khái thấu, Đông y còn chi tiết hóa bằng nhiều dạng khác nữa như:
– Thu táo khái thấu là chứng ho đờm xuất hiện vào mùa Thu Đông, khí hậu khô ráo, có lẫn cả phong hàn và phong nhiệt gây bệnh với triệu chứng ho khan ít đờm, miệng khô, họng rát (do phong nhiệt), ớn lạnh, sợ gió, đờm vàng tía hoặc có vướng ít máu rêu lưỡi vàng, đầu lưỡi đỏ, không mồ hôi, đau mình (do phong hàn).
Cách trị thì dùng các vị thuốc cay mát như: Tang diệp, Hắc đậu (đậu đen), Sa sâm, Tuyết Lê, Hạnh nhân, Triết bôi mẫu, Mạch môn, Qua lâu nhân, Lô căn, Phòng phong, Kinh giới, Tử uyển, Khoản đông hoa để lý Phế chỉ khải.
Dưới đây là một số bài thuốc kinh trị:
- Bài số 1:
Ma hoàng 04g; Chích cam thảo 06g; Phật nhĩ thảo 10g; Quất hồng bì 05g; Kiết cánh 05g; Đương qui 10g; Hạnh nhân 10g; Bào can khương 04g; Sinh khương 01 lát.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài số 2: Cuối Đông sang xuân, khí trời bỗng ấm lên đột ngột, thoạt tiên ho khan mà họng khô, đàn ông ho thì phần đông ho biến chứng của Tâm Thận, phụ nữ mà ho là do bệnh về kinh nghiệt, nên dùng phương thuốc dưới đây để thanh Phế dưỡng âm chỉ khái:
Bách hợp 15g; Đạm đậu xị 10g; Hạnh nhân 10g; Sinh địa 10g; Hắc chỉ tử (giã dập) 10g; Tang diệp 10g; Kiết cánh 05g; Cam thảo 05g.
Sắc uống ngày 1 thang
– Thấp đởm khái thấu là chứng ho đờm do thấp khí làm trở ngại đến phổi và khí quản nên gây ho với triệu chứng: Ho nhiều, đờm trắng đục, đau tức hông ngực, chán ăn, buồn bực, mệt mỏi, lưỡi trắng nhợt.
Cách trị là kiện tỳ vị, táo thấp hóa đờm. Khi bệnh gia tăng, dùng táo thấp hóa đờm là chính; khi bệnh giảm thì kiện tỳ dưỡng vị là chính. Dùng các vị thuốc trong hai bài “Bình vị tán”, gồm có: Thương truật, Hậu phác, Trần bì, Cam thảo, Sinh khương, Đại táo, gia thêm Ngưu bàng tử, Ý dĩ nhân để thông phế hóa đờm. Khi bệnh giảm chuyển qua bài “Lục quân tử thang” gia giảm gồm: Nhân sâm, Phục linh, Bạch truật, Bán hạ, Cam thảo, Sinh khương, Đại táo, Trần bì để kiện tỳ hóa đờm.
Dưới đây là 3 bài thuốc tiêu biểu:
- Bài số 1: Bài “Bình vị tán gia giảm” để thông Phế hóa đờm.
Thương truật 10g; Chế hậu phác 10g; Trần bì 06g; Cam thảo 04g; Ngưu bàng tử 12g; Hạnh nhân 10g; Ý dĩ nhân 30g;Sinh khương 03 lát; Đại táo 02 quả.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài số 2: Bài “Lục quân tử thang” gia giảm để kiện Tỳ hóa đờm.
Nhân sâm 12g; Bạch truật (sao) 12g; Phục linh 12g; Chích cam thảo 03g; Chế bán hạ 08g; Trần bì 06g; Sinh khương 03 lát; Đại táo 03 quả.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài số 3: Đờm trọc ứ tắc ở Phế, ngực bức bối, lưỡi sạm, môi tái, nên kiện Tỳ khư đờm.
Bạch truật (sao) 12g; Thương truật 10g; Đảng sâm 12g; Phục linh 12g; Bạch giới tử (sao) 10g; Lai phục tử (sao) 12g; Chế bán hạ 10g; Hồng hoa 06g; Xuyên khung 06g; Đình lịch tử 15g; Kinh giới hoa 06g.
Sắc uống ngày 1 thang.
– Can hỏa khái thấu là chứng ho đờm do can khí uất kết, khí hóa thành hỏa, can hỏa phạm vào Phế gây ra các triệu chứng: Ho xộc ngược, ho nhiều làm đau ran cả ngực và hai bên hông, miệng khô, họng rát, mặt đỏ, rêu lưỡi vàng mòng, mạch đi huyền sác.
Pháp trị nên thanh can tả hỏa, nhuận phế hóa đờm.
- Bài số 1: Bài “Thanh phế hóa đờm thang” gia giảm.
Hoàng cầm 10g; Sơn chỉ tử 10g; Tang bạch bì 16g; Qua lâu năm 10g; Triết bối mẫu 10g; Mạch môn 12g; Kiết cánh 10g; Tri mẫu 10g; Quất hồng bì 10g; Phục linh 12g; Cam thảo 03g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài số 2: Khái thấu đờm vàng dính, phát sốt khát nước, họng sưng đỏ là nhiệt độc phạm Phế, cần thanh tuyên Phế khí, hóa đờm chỉ khải.
Nên dùng:
Sinh lô căn 30g; Sinh thạch cao 30g; Ngư tinh thảo 30g; Đông qua tử 12g; Sinh ý dĩ nhân 12g; Ma hoàng 12g; Kim ngân hoa 10g; Đào nhân 10g; Liên kiều 10g; Hạnh nhân 10g; Đạm đậu xị 10g; Trúc diệp 10g; Ngưu bàng tử 10g; Kiết cánh 05g; Cam thảo 05g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài số 3: Đờm vàng dính khó khạc ra là do nhiệt độc nung nấu. Phế âm tổn thương, nên dùng pháp thanh nhiệt giải độc, tuyên Phế hóa đờm, giáng nghịch từ ho.
Nên dùng:
Bản lam căn 20g; Lô căn 20g; Ngư tinh thảo 15g; Thiên trúc hoàng 15g; Triết bôi mẫu 10g; Hạnh nhân (sao) 10g; Chích tử uyển 12g; Huyền sâm 12g; Quất hồng bì 10g; Hoàng cầm 10g; Bạch tiền 10g; Cam thảo 10g; Can địa long 10g; Tang bạch bì 12g; Kiết cánh 10g; Hải phù thạch 20g; Thiên hoa phấn 12g; Mạch môn 15g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Do nội thương:
Ho mà không được điều trị hoặc điều trị không dứt, lâu dần bệnh sẽ thành kinh niên làm ảnh hưởng đến tạng Phế và Thận. Đông y xếp chứng bệnh này vào thể “Phế hư khái thấu” còn Y học hiện đại gọi là “Viêm phế quản mãn tính”, tuy ngôn ngữ bất đồng nhưng cùng một ý.
- Triệu chứng:
– Ho khan không có đờm hoặc ít đờm, trong đờm có lẫn máu.
– Miệng khô, họng ráo, lòng bàn tay bàn chân nóng, hay sốt về chiều.
– Ngủ ít, đổ mồ hôi trộm, lưng gối đau mỏi, đàn ông hay bị di tinh.
– Rêu lưỡi ít hoặc vàng, màu lưỡi đỏ non, mạch đi tế sắc (âm hư hỏa vượng).
- Pháp trị:
– Tư âm nhuận phế (dưỡng âm thanh phế).
– Hóa đờm chỉ khái.
- Bài thuốc:
- Bài số 1:
Bách hợp 60g; Khoản đông hoa 10g; Mạch môn 15g.
Sắc uống ngày 1 thang
- Bài số 2:
Sa sâm 15g; Mạch môn 15g; Ngọc trúc 15g; Thiên hoa phấn 12g; Bạch biển đậu 12g; Cam thảo 03g; Hạnh nhân 10g; Tang diệp 10g; Sài hồ 10g; Hoàng liên 03g; Địa cốt bì 12g; Xuyên bôi mẫu 06g (hòa với thuốc sắc).
Sắc uống ngày 1 thang
- Bài số 3:
Bản lam căn 20g; Lô căn 20g; Thiên trúc hoàng 15g; Ngư tinh thảo 15g; Chích tử uyển 12g; Huyền sâm 12g; Quất hồng bì 10g; Bạch tiền căn 10g; Cam thảo 10g; Triết bôi mẫu 10g; Hạnh nhân (sao) 10g; Kiết cánh 10g; Hải phù thạch 20g; Thiên hoa phấn 12g; Mạch môn 15g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài số 4:
Bắc sa sâm 10g; Thiên môn đông 10g; Mạch môn đông 10g; Hoàng cầm (Sao) 10g; Hạnh nhân 10g; Bách hợp 10g; Qua lâu bì 10g; Xuyên bối mẫu 10g; Đông qua tử 10g; Hoa kỳ sâm lang 05g.
- Bài số 5:
Bách hợp 30g; Sinh ý dĩ nhân 15g; Mạch môn đông 12g; Chích tỳ bà diệp 12g; Phục linh 12g; Thiên môn đông 10g; Chích tang bạch bì 10g; Bạch tiền căn 10g; Hoài sơn 10g; Địa cốt bì 10g; Chích bách bộ 10g; Xuyên bối mẫu 06g; Bạc hà 03g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài số 6: Viêm phế quản mãn tính
– Biện chứng Đông y: Do hàn tà phạm Phế khiến Phế không còn chức năng tuyên giáng.
– Pháp trị: Tuyên phế chỉ khái, khử đàm bình suyễn.
- Bài thuốc: “Gia vị tam ảo thăng”
Công thức:
Chích ma hoàng 06g; Hạnh nhân 06g; Cam thảo 06g; Tiền hồ 06g; Kiết cánh 06g; Tử uyển 10g; Cơ ích đậu linh 12g; Bách bộ 06g; Bách hợp 15g; Mạch môn đông 10g; Ngũ vị tử 06g; Xuyên bối mẫu 06g.
Sắc uống ngày 1 thang, chia làm 2 lần uống.
Gia giảm:
– Có đàm bọt loãng và thở khò khè, gia Chế nam tinh 06g.
– Người nhiều đàm gia thêm Chế bán hạ 10g, Quất hồng bì 10g, Phục linh 10g.
– Đau ngực, nhiều đàm, gia Qua lâu bì 06g.
– Có dấu hiệu khí uất không tan, thêm Chỉ xác 06g.
– Tức ngực, thở gấp, gia Tô ngạnh 10g, Khoản đông hoa 10g.
– Nếu Phế nhiệt, thở dốc, táo bón, gia Lai phục tử 10g, Tang bạch bì 10g.
– Ho từng cơn liên tục không dứt, gia thêm Sinh a giao 10g.
– Khí hư, tim đập hồi hộp, gia Đảng sâm 15g.
- Bài số 7:
– Biện chứng Đông y: Do Phế Tỳ khí đều hư, đàm thấp úng thịnh.
– Pháp trị: Bổ tỳ ích phế, chỉ khái bình suyển, hóa đàm khử thấp.
- Bài thuốc: “Tân phương khí quản phiến”
Công thức:
Náo dương hoa 15g; Chế bán hạ 15g; Hồng táo 15g; Cam thảo 15g; Mạch môn đông 30g; Đảng sâm 25g; Sa nhãn 25g.
Cách làm: Hai vị Náo dương hoa và Sa nhân đem tán bột mịn. Các vị thuốc còn lại đem nấu chiết lấy nước, cỡ thành cao đặc rồi đổ bột thuốc vào, khuấy đều, sau đó trải mỏng và đem sấy khô, tán thành bột lần nữa. Xong, bỏ vào lọ cất để uống dần.
Cách dùng: Ngày uống 1 lần, mỗi lần 01g thuốc bột với nước đun sôi để nguội.
Hiệu quả lâm sàng: Một nam bệnh nhân 60 tuổi, ho suyễn, tức ngực đã mấy năm, nhổ ra đàm, nặng nhất vào ban đêm. Chẩn đoán viêm phế quản mãn tính, hen phế quản, phế khí thủng, thường dùng thuốc tây nhưng không thuyên giảm. Mỗi tối cho uống 01g bột thuốc liên tục 4 ngày thì dứt hẳn các triệu chứng ho đàm, khó thở.
- Bài số 8: Viêm phế quản mãn tính kèm Phế khí thủng
– Biện chứng Đông y: Phế tỳ khí hư.
– Pháp trị: Bồi thổ sinh kim, bổ tỳ ích phế.
- Bài thuốc: “Phế tỳ ích khí thang”
Công thức:
Đảng sâm 15g; Sinh hoàng kỳ 10g; Đương qui 10g; Bạch thược (sao) 10g; Bạch truật (sao) 10g; Phục linh 10g; Chế bán hạ 10g; Tử uyển 10g; Sơn thù nhục 10g; Trần bì 06g; Chích viên chí 06g; Tuyền phục hoa (gói lại) 06g; Thục mẫu lê (sắc trước) 30g; Ma hoàng 02g; Quế chi 02g; Phòng phong 02g.
Sắc uống ngày 1 thang
Hiệu quả lâm sàng: Đã trị 7 ca từ 6 tháng đến hơn 1 năm, kết quả rất tốt. Đa số bệnh nhân bị viêm phế quản mãn tính hơn 10 năm lại kèm chứng phế khí thũng, nghiện thuốc lá lẫn rượu, mỗi lần mùa đông tới là lên cơn ho, khạc đàm trắng, thở ngắn, tức ngực, ngủ không yên giấc. Sau khi cho uống bài thuốc trên đây 30 thang, liền bỏ bớt vị Ma hoàng và Quế chi. Cho uống liên tục trên dưới 1 năm, sức khỏe hồi phục như cũ.
- Bài số 9: Viêm phế quản mãn tính kèm Phế khí thũng
– Biện chứng đông y: Trung tiêu dương hư, tỳ mất chức năng kiện vận, khí không hóa thủy, thấp tụ thành đàm nghịch lên thành ho suyễn.
– Pháp trị: Ôn dương khứ thấp hóa đàm
- Bài thuốc: “Gia vị ty ẩm thang”
Công thức:
Bạch truật (sao) 15g; Can khương 10g; Quế chi 06g; Chích cam thảo 06g; Phục linh 20g; Quất hồng bì 10g; Chế hậu phác 10g; Đình lịch tử 10g; Tử tô tử 10g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Bà Tô Tuyết Lan 47 tuổi, bị ho suyễn đã trên 7 năm, cứ đến mùa đông và mùa hè là bệnh nặng thêm. Gần đây bị ho kèm suyễn rất nặng, khó thở, không nằm ngửa được, ho khạc rất nhiều đàm dãi trắng, váng đầu, chóng mặt, tim đập hồi hộp. Sau khi uống bài thuốc trên 3 tháng thì ho suyễn giảm rõ nhưng cảm thấy nóng bức trong ngực, đổ mồ hôi trộm. Liền bỏ bớt vị Đình lịch tử và Tử tô tử, gia thêm Hoàng kỳ 15g, Bạch thược 10g, Hắc táo nhân 10g cho uống tiếp 6 thang nữa, các triệu chứng đều biến mất. Vẫn tiếp tục cho uống bài thuốc trên, có gia giảm, liên tục 1 tháng thì sức khỏe hồi phục.
- Bài số 10: Nội thương khái thấu lâu năm biến thành Phế lao (lao phổi).
– Triệu chứng: Ăn kém, thở hụt hơi, sốt nhẹ vào buổi chiều, ho khan họng ráo, tức ngực, khạc ra huyết.
– Nguyên nhân: Do “Âm hư hỏa vượng”.
Nên dùng:
Bắc sa sâm 15g; Đảng sâm 30g; Thái tử sâm 15g; Đông trùng hạ thảo 15g; Hoàng tinh 30g; Bạch bộ 15g; Sinh địa 15g; Chích khoản đông hoa 15g; Thục địa 15g; Hoài sơn 15g; Bạch cập 15g; Thiên môn đông 15g; Xuyên bối mẫu 12g; Hạnh nhân 10g; Ngũ vị tử 10g; Quất lạc 10g; Trắc bách diệp 05g.
Sắc uống ngày 1 thang
- Bài số 11:
– Triệu chứng: Phế lao ho khan, khi ho đau xốc cả ngực sườn, tâm phiền dễ cáu giận, trong đờm khạc ra có lẫn máu, mạch đi Huyền Sắc
– Nguyên nhân: Bệnh thuộc âm hư Can vương, Phế Can Thận đồng suy.
Nên dùng:
Tiên hạc thảo 30g; Ngọc trúc 15g; Sinh địa 15g; Tri mẫu 15g; Miết giáp (chế) 15g; Sinh bạch thược 25g; Sơn từ cô 15g; Hoàng cầm 10g; Xuyên bối mẫu 10g; Uất kim 10g; Địa cốt bì 10g; Thanh hao 10g.
Sắc uống ngày 1 thang
Gia giảm:
– Ngực sườn đau, ho bị sặc, gia Trúc nhự 15g. Quất lạc 10g, Xuyên huyện tử 10g, Diên hồ sách 10g.
– Tâm phiền hay cáu giận, gia Linh dương giác 10g, Hổ phách phấn 10g.
– Trong đờm có lẫn huyết hoặc thổ huyết, bỏ Thanh hao, Miết giáp; gia Sinh thạch cao 20g, Bách bộ 30g, Tam thất phấn 03g.
– Khái huyết, thổ huyết đột ngột, gia Sinh long cốt 30g, Sinh mẫu lệ 30g, Qui bản 15g.
– Lưng đùi đau mỏi, gia Câu kỷ tử 12g, Ngưu tất 12g, Đỗ trọng (Sao) 12g.
- Bài số 12: Viêm phế quản phổi
– Biện chứng Đông y: Phong nhiệt phạm thế, phế táo phát nhiệt
– Pháp trị: Thanh nhiệt chỉ khái
- Bài thuốc: “Tiên phong ngân cúc thang”
Công thức:
Tiên bang (trai tươi) 07 con; Kim ngân hoa 20g; Cam cúc hoa 20g.
Cách làm và dùng: Tiên bang là con trai còn sống (loại nghêu sờ cho ngọc trai), chọn thứ vỏ mỏng, màu vàng, to béo, đặt nướng trên than hồng. Khi trai vừa hé miệng, chưa chảy nước, liền rót nước ra 1 cái chén. Kim ngân hoa, Cúc hoa, đem sắc đặc, lấy độ nửa chén nước rồi trộn chung với nước trai. Uống nguội, ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Ngô Thị Nữ 50 tuổi, 10 năm trước bị sốt ho, đau ngực, nhức đầu. Được một bệnh nhân chẩn đoán “Viêm phế quản phổi”, cho uống thuốc Tây chỉ giảm đau ngực, nhức đầu, riêng sốt, ho, đàm vàng đặc thì không giảm. Người bệnh rất khát nước, biếng ăn, môi và lưỡi đều đỏ, rêu lưỡi vàng, gầy mòn, buồn ngủ, sáu mạch đều đi tế sắc vô lực.
Chẩn đoán do “Phong nhiệt phạm chế”, cho uống “tiên phong ngân cúc thang” chỉ 1 thang thì các triệu chứng giảm quá nửa, tinh thần phấn chấn, cảm thấy đói, thèm ăn. Cho uống tiếp 2 thang nữa bệnh khỏi hoàn toàn.
Bài luận: Bài “Tiên phong ngân cúc thang” có hiệu quả trong các viêm đường hô hấp trên, từ thời cảm mạo có sốt. Rất nhiều người có cảm giác như phổi và cổ họng được suối ngọt tươi mát ngay sau khi uống hết thang đầu tiên.
- Bài số 13: Khái huyết (Ho khạc ra máu)
– Biện chứng Đông y: Âm hư hỏa vượng
– Pháp trị: Dục âm như can, thanh tâm túc phế.
- Bài thuốc: “Gia vị dục âm chỉ huyết thang”
Công thức:
Bắc sa sâm 10g; Xuyên luyện tử (sao) 10g; Sinh mẫu lệ 10g; Câu đằng 10g; Địa du 10g; Hòe hoa 10g; Sinh địa 12g; Sinh bạch truật 12g; Hải phù thạch 15g; Thanh long xỉ 15g; Bạch cập 15g; Nữ trinh tử 25g; Tiên hạc thảo 60g; Xuyên bối mẫu 06g.
Sắc uống ngày 1 thang
Hiệu quả lâm sàng: Lý Tuấn Nho 30 tuổi, thể chất vốn yếu đuối lại hay ho, bị nội trĩ, táo bón kinh niên. Nhân khi lao động gắng sức, cảm thấy mệt đột ngột, trên ói ra máu tươi từng ngụm, dưới đi tiểu lỏng có lẫn ít máu, váng đâu, lưỡi đỏ, tim đập hồi hộp, phải chở đi cấp cứu.
Khám diện chẩn thấy lưỡi đỏ, râu ít, mạch đi tế sắc. Chẩn đoán bệnh do “Âm hư dương can, tâm hỏa thiên thịnh”. Cho uống bài “Gia vị dục âm chỉ huyết thang” 1 tuần lễ, hiện tượng ói ra máu và đi tiểu ra máu ngừng hẳn, chỉ còn lẫn chút ít trong đàm. Lúc này người bệnh cảm thấy bụng chướng, ăn ngủ kém, rêu lưỡi chuyển màu trắng nhạt, mạch đi huyền hoãn.
Bài thuốc đổi lại như sau:
Địa du 10g; Hòe hoa 10g; Bạch truật 12g; Hải phù thạch 15g; Bạch cập 15g; Tiên hạc thảo 60g; Xuyên bối mẫu 06g; Hắc táo nhân 25g; Hoắc dương 25g; Dạ giao đằng 25g; Đảng sâm 25g; Sinh hoàng kỳ 25g; Can địa hoàng 10g; Kê nội kim 10g; Hạnh nhân 10g; Phục thần 12g; Chế hậu phác 06g; Bạch đậu khấu 06g.
Cho uống tiếp 06 thang nữa, máu trong đàm ngưng hẳn, hết ho, bệnh lui.
- Bài số 14: Giãn phế quản khạc ra máu.
– Bệnh chứng đông y: Do âm hư phế nhiệt
– Pháp trị: Dưỡng âm thanh phế lợi hạc
- Bài thuốc: “Khái suyễn chỉ huyết thang”
Công thức:
Công lao diệp 5g; Tiên hạc thảo 5g; Bách bộ 5g; Bách hợp 5g; Thiên môn đông 5g; Sa sâm 5g; Nhụy thạch hoa 5g (nung); Bạch cập 5g; Thu thạch 5g; Tam thất phấn 08g (chia làm 3 lần uống với thuốc sắc).
Sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Võ Văn Mạnh 56 tuổi, có tiền sử do bị ho hen nhiều năm, gần đây do bị cảm và làm việc quá sức làm bệnh thêm nặng, ho trong đàm có lẫn máu. Được một bệnh viện khám, chẩn đoán là giãn phế quản, cho nằm điều trị bằng nhiều thuốc kháng sinh nhưng không thấy chuyển biến. Nay do hen càng nhiều, không nằm thẳng được, trong đàm có máu, táo bón, nước tiểu đỏ. Khám thấy mặt vàng hơi đỏ, phù nhẹ, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng trắng mà khô, mạch đi huyền sắc, thân nhiệt 37,7 độ C. Đây thuộc dạng âm hư, tỳ phế nhiệt sinh khạc máu.
Sau khi cho uống “Khái suyễn chỉ huyết thang” 4 thang, ho đàm hết máu nhưng vẫn còn ho, họng khô, lưỡi khô, mạch đi trầm sác.
Tiếp tục dùng phương trên, gia thêm:
Huyền sâm 50g; Quất lạc 20g; Bạch quả 15g; Hải phù thạch 15g.
Cho uống tiếp 2 thang, các triệu chứng đều giảm mạnh, tinh thần tươi tỉnh, chỉ còn thở ngắn, mạch chuyển tế sác.
Liền đổi qua pháp “ích khí dưỡng âm” bằng thang:
Thục địa 50g; Sinh địa 50g; Thiên môn đông 30g; Bắc sa sâm 15g; Mạch môn đông 30g; Bạch bì sâm 15g; Xuyên bối mẫu 15g; Bạch chỉ 20g; Hoa nhụy thạch 15g; Bạch cập 15g; Công lao diệp 20g; Tiên hạc thảo 30g; Bách bộ 15g.
Uống 2 thang, các triệu chứng còn lại đều mất, bệnh nhân ăn ngủ thoải mái, cho xuất viện.
Bàn luận: Phế chủ giáng khí, Thận chủ nạp khí, khí phế mất chức năng thăng giáng, Thận suy không nạp được khí thì ho mới phát khởi là lẽ đương nhiên. Còn tỳ chủ kiện vận, nay cũng mất chức năng, thủy thấp không hóa được thì tụ lại mà sinh đàm. Ho hen phạm đến phế âm, âm làm thương tổn kinh lạc nên khạc ra máu, họng đau, sườn đau là những triệu chứng thường gặp. Cuối cùng sử dụng phương “ích khí dưỡng âm” mới thu được thành công trọn vẹn.
- Bài số 15: Giãn phế quản khạc ra máu
– Bệnh chứng đông y: khái nghịch thương phế.
– Pháp trị: tư âm thu liễn, giáng nghịch chí huyết.
- Bài thuốc: “Bình khái chỉ huyết tán”
Công thức
Đại giả thạch 12g; Tuyền phục hoa 06g; Chế bán hạ 06g; Tử uyển 06g; Khoản đông hoa 12g; Tiền hồ 06g; Ma hoàng 06g; Sinh thạch cao 06g; Hạnh nhân 06g; Mạch môn đông 12g; Mã đầu linh 12g; Tang bạch bì 06g; Bạch mao căn 06g; A giao 06g; Ngẫu tiết 06g (ngó sen tươi); Mễ xác (gạo cũ) 06g; Ngũ vị tử 03g.
Cách làm và dùng: Tất cả đem xay và hay nghiền bột mịn. Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 06g với nước lọc vào sáng sớm và buổi tối trước khi đi ngủ.
Hiệu quả lâm sàng: Lê Thị Hồng 61 tuổi, có tiền sử ho khan ra máu, một bệnh viện chẩn đoán do giãn phế quản. Sau khi uống “Bình khái chỉ huyết tán”, bệnh khỏi hoàn toàn. Theo dõi 10 năm vẫn không thấy tái phát. Thử ứng dụng cho nhiều ca bệnh cũng khạc ra máu do giãn Phế quản thảy đều có kết quả rất tốt.
- Bài số 16: Giãn phế quản khạc ra máu
– Biện chứng Đông y: Phế táo, can hỏa vượng, bức huyết vọng hành
– Pháp trị: Bình can thanh phế, sinh lạc chỉ huyết
- Bài thuốc: “Phức phương thanh phế chỉ lạc thang”.
Công thức:
Tang diệp 10g; Tang bạch bì 10g; Địa cốt bì 15g; Cam thảo 10g; Sinh địa 15g; Địa du 15g; Tỳ bà diệp 12g; Chích tử uyển 15g; Hoàng cầm 10g; Đại cáp tán 15g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Châu Thị Mai 26 tuổi, có tiền sử ho khạc ra máu, được một bệnh viện chẩn đoán khạc máu do “Giãn phế quản”. Mấy ngày gần đây bệnh nhân ho và thấy trong đàm có lẫn máu, sắc máu đỏ tươi xen lẫn đỏ tía, đau ngực, sườn căng, tính tình nóng nảy, lưng đau ê ẩm, kinh nguyệt đến sớm, trước kinh đau bụng, họng khô, khát nước, rêu lưỡi mỏng bẩn, mạch đi huyền tế sác.
Sau khi uống 6 thang “Phức phương thanh phế chỉ lạc thang”, đàm bớt máu nhưng các triệu chứng khác vẫn còn. Dùng nguyên phương, gia thêm Uất kim 10g, cho uống tiếp 6 thang nữa hết hẳn khạc máu nhưng ngực vẫn còn khó chịu. Liền bỏ hoàng cầm, địa cáp tán, thêm chỉ xác 10g, cho uống 6 thang nữa bệnh khỏi hoàn toàn.
Bàn luận: Bệnh giãn phế quản khạc máu liên miên lại có hiện tượng tức ngực, sườn căng, họng khô, lưng đau ê ẩm là do Phế âm hư mà Can hỏa vượng, “Phế thận đồng suy”. Dùng Tang Diệp, Tang bạch bì, Địa cốt bì, Cam thảo là nhầm thanh phế, Đại cáp tán để bình Can, Tỳ bà diệp, Tử uyển, Hoàng cầm, Địa du để túc Phế thanh nhiệt chỉ huyết. Dùng Sinh địa để tử Thận lương huyết để cầm máu dần dần. Dùng uất kim, chỉ xác là để sơ Can giải uất nên bài thuốc đạt được kết quả như ý
- Bài số 17: Giãn phế quản khạc máu nặng (Thổ huyết)
– Biện chứng Đông y: Thận tinh hư, Thủy không hàm mộc, Mộc hỏa phạt Kim làm phế lạc tổn thương gây khạc (thổ) huyết
– Pháp trị: ích khí dưỡng âm, tư thủy hàm mộc
- Bài thuốc: “Chỉ khoáng cao”
Công thức:
Bắc sa sâm 120g; Thục địa 240g; Qui bản 120g; Bắc câu kỷ tử 120g; Thiên môn đông 60g; Mạch môn đông 60g; Ngũ vị tử 50g; Sinh địa 60g; Bạch truật (sao) 50g; Phục thần 60g; Chích viễn chí 50g; Hắc táo nhân 40g; Đông trùng hạ thảo 60g; Hạ khô thảo 60g; Xuyên bối mẫu 60g; Đương qui thân 60g; Ngân sài hồ 50g; Xuyên hoàng liên 30g; Xuyên luyện tử nhục 35g; Tử đan sâm 50g; Cam thảo 25g.
Cách làm: Nấu 2 vị thuốc với một lượng nước vừa phải trên ngọn lửa nhỏ, gạn lấy 2 lần nước thuốc, sau đó gia thêm ít mật ong và đường phèn (không quá ngọt) cô thành cao mềm, cất vào lọ dùng dần.
Cách dùng: ngày uống 3 lần, sáng trưa tối, mỗi lần 10 – 15g với nước ấm.
Hiệu quả lâm sàng: Lê Tấn Tài 36 tuổi, có tiền sử ho khạc ra máu hơn 5 năm không dứt, đã từng nằm bệnh viện điều trị nhưng chỉ ngưng tạm thời không hết hẳn. Gần đây bỗng dưng ho khạc ra máu hằng bụm tay, một bệnh viện chẩn đoán do giãn Phế quản. Khám thấy bệnh nhân yếu mệt, mặt mày ủ rũ, lưỡi hơi đỏ, ít rêu, mạch tế. Sau khi cho uống một liều “Chỉ khoáng cao” thì hết khạc máu, các chứng khác cũng hết. Dặn bệnh nhân mỗi năm gần tới mùa Đông chịu khó uống một liều thuốc và liên tiếp trải qua 3 mùa Đông sức khỏe vẫn tốt, sinh lực dồi dào, kết quả mỹ mãn.
Bàn luận: Bài thuốc “Chỉ khoáng cao”, ngoài chủ trị chứng khạc ra máu, còn trị được chứng Phế lao thổ huyết (ói ra máu tươi). Đã ứng dụng cho 20 bệnh nhân vừa ho khạc ra máu vừa bị bệnh lao thổ huyết đều hiệu nghiệm như nhau. Tuy nhiên, sau khi điều chế, nhớ giữ thuốc trong tủ lạnh để ngừa thuốc hư hỏng.
- Bài số 18: Giãn phế quản khạc ra máu
– Biện chứng Đông Y: Phế khí bất liễm, huyết theo khí thượng nghịch.
– Pháp trị: Dưỡng âm chỉ khái huyết.
- Bài thuốc: “Tuyền phụ đại giả thạch thang gia giảm”
Công thức:
Tuyền phục hoa 10g; Đại giả thạch 30g; Bắc sa sâm 12g; Cam thảo 05g; Bách bộ 10g; Chích tử uyển 08g; Trắc bách diệp 20g; Tiên hạc thảo 15g; Bạch mao căn 15g; Bạch cập 12g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Gia giảm: Ho kịch liệt, gia ma hoàng 3 – 6g, hạnh nhân 6 – 10g, Tử tô tử 6 – 10g. Trong đàm có lẫn mủ, gia Ngư tinh thảo 15 – 30g, Hoàng cầm 10 – 12g, Xuyên hoàng liên 03 – 06g. Khạc máu nhiều, gia Tam thất phấn 3 – 6g. Táo bón, gia sinh đại hoàng 10g. Qua lâu nhân 12 – 15g. Ăn kém ngon miệng, gia Sơn tra (sao) 10 – 12g, Cốc nha 10g, Mạch nha 15 – 30g.
Hiệu quả lâm sàng: Đã trị 11 ca bệnh đều đạt kết quả tốt. Người dùng ít nhất 15 thang, nhiều nhất 40 thang, nói chung trong vòng 2 – 3 thang là bệnh giảm thấy rõ.
- Bài số 19: Khí thũng phổi (giãn phế nan)
– Biện chứng đông y: Do đàm úng thịnh
– Pháp trị: Phù chính khu tà, tiêu bản đồng trị
- Bài thuốc: “Tam tử dưỡng thân gia vị than”
Công thức:
Sinh hoài sơn 60g; Huyền sâm 30g; Tử tô tử 10g; Bạch giới tử 10g; Lai phục tử 10g.
Sắc uống ngày 1 thang
Hiệu quả lâm sàng: Cao Văn Tuấn, 67 tuổi, có tiền sử ho suyễn đã 8 năm, thường dùng thuốc aminophylin để điều trị nhưng không dứt bệnh. Gần đây luôn thấy khó thở, xin chuyển qua đông y.
Khám thấy bệnh nhân ho hen khó thở, ngực đầy đau tức, rất nhiều đàm dính lẫn bọt, váng đầu, mệt sức, miệng khô khát nhưng uống nước không nhiều, lưỡi đỏ ít rêu, mạch di tế sác. Cho chiếu X – rays vùng ngực thấy khí thũng phối (giãn phế nang). Chẩn đoán bệnh trạng do đàm nhiệt ẩn nấu lâu ngày, phế âm tổn hại. Âm hư tất sinh nội nhiệt, nhiệt thịnh nung dịch thành đàm, đàm làm tắt nghẽn khí đạo nên khí thượng nghịch thành ho suyễn. Đây là hiện tượng chính khí suy mà tà khí thực, hư thục lẫn lộn, pháp trị ắt phải phù chính khu tà, trị cả gốc lẫn ngọn.
Sau khi cho uống 3 thang “Tam tử dưỡng thân gia vị”, các chứng giảm quá nửa. Cho uống thêm 3 thang nữa, ho suyễn không còn, sức khỏe hồi phục gần như bình thường. Theo dõi hơn 3 năm vẫn không tái phát.
Bàn luận: Bài thuốc có giá tị cao đối với người lớn tuổi thường bị ho hen đàm suyễn, khí nghịch khó thở. Đàm nhiều thì ngực tắt, khí trệ thì hóa hỏa, đàm hỏa vướng lấp khí đạo nên thở nặng hụt hơi. Dùng tô tử để giáng khí hóa đàm. Khi thuận đàm tiêu la hết ho, trị thực chứng, ở ngọn phế. Dùng Hoài sơn, tuy sắc trắng đi vào phế, nhưng vị lại ngọt nên nhập vào tỳ làm đậm chất dịch mà ích Thận, nên vừa bổ Phế Thận lại vừa bổ Tỳ vị tính của Hoài sơn vừa tư âm lại vừa lợi thấp, vừa hoạt nhuận lại vừa thu liễm, làm ngưng ho hết suyễn là lẽ đương nhiên. Lại dùng Huyền sâm, sắc đen, vị ngọt hơi đắng, tính lượng nhiều dịch, vừa nuôi âm vừa giáng khí, nhập phế để thanh táo nhiệt nên ho suyễn do Phế phải lui. Kinh nghiệm dùng hoài sơn đi với Huyền sâm làm tăng khả năng khái định suyễn, thật là một bài thuốc hay
- Bài số 20: Khí thũng phổi (giãn phế nang)
– Biện chứng Đông y: Thận không nạp khí sinh ho suyễn.
– Pháp trị: cổ thận chỉ khái định suyễn.
- Bài thuốc: “Quế chi long mẫu thang gia giảm”
Công thức:
Long cốt 20g (sắc trước); Sinh mẫu lệ 30g (Sắc trước); Đại giả thạch 30g (sắc trước); Chích tô tử 10g (bọc trong túi vải); Trầm hương 03g (cho vào sau); Quế chi 03g; Bạch thược (sao rượu) 10g; Đương qui 10g; Ngũ vị tử 05g; Mạch môn đông 10g; Thái tử sâm 15g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Gia giảm: Nếu sạch lưỡi, họng khô, đàm có lẫn máu thì bỏ vị Quế chi, gia thêm Bắc sa sâm 15g, Thạch hộc 12g. nếu ho có đàm thì gia thêm Khoản đông hoa 10g, Bách bộ 15g, Chích tử uyển 5g. Nếu rêu lưỡi cáu bẩn thì gia thêm Trần bì 5g, Chế bán hạ 8g, Phục linh 12g, Cam thảo 3g. Sau khi cơ thể ổn định, gia thêm Hoài sơn 20g, Đông trùng hạ thảo 3 – 5g, để điều bổ thì càng mau lợi sức.
Hiệu quả lâm sàng: Nguyễn Văn Chúc 60 tuổi, về chiều hay ho, thở gấp, tim đập mạnh, sợ lạnh, đầu choáng, tức ngực, cảm thấy hư hỏa bốc phà lên mặt, nửa đêm lợm giọng vì khí trào lên dạ dày, lưỡi hồng nhạt, mạch di huyền hư. Chiếu X-rays thấy khí thũng phổi (giãn phế nang), viêm màng phổi trái, lao phổi thời kì I – II.
Sau khi cho uống 3 thang “Quế chi long mẫu thang gia giảm” bệnh nhân hết thở gấp, hết tức ngực, giảm sợ lạnh, ban đêm không còn hư hỏa thượng xung, có thể nằm thẳng được, ăn ngủ khả quan hơn trước, Giữ nguyên phương thang, gia thêm Hoàng kì 20g, Hoài sơn 15g, Bắc sa sâm 15g, Phục linh 12g, Ý dĩ nhân 20g, cho uống liền 20 thang, bệnh khỏi.
- Bài số 21: Viêm phổi
– Biện chứng đông y: Đàm nhiệt thượng xung gây tổn thương phế lạc
– Pháp tri: Thanh nhiệt tiêu độc, hoạt ứ tuyên phế
- Bài thuốc: “Phức phương thanh độc hoạt ứ thang”
Công thức:
Thiên lý quang 30g; Ngư tinh thảo 30g; Xuyên tâm liên 30g; Bạch hoa xà thảo >60g; Hổ trượng căn 20g; Hoàng cầm 15g; Mao đông thanh căn 20g; Xích thược 18g; Đương qui vĩ 25g; Sinh địa 25g; Xuyên khung 12g; Đào nhân 12g; Cam thảo 10g.
Sắc lấy 2 lần nước, tổng cộng độ 400ml, chia uống làm 4 lần, mỗi lần 100ml. Ngày uống 1 thang.
Gia giảm:
– Nếu nhiệt thịnh làm thương tổn tân dịch, gia Mạch môn đông 15g, Thiên hoa phấn 15g, Bắc sa sâm 15g, Thạch hộc 12g.
– Nếu ngực căng tức khó chịu, gia Uất kim 10g, Diên hồ sách 10g.
– Nếu nhiều đàm màu vàng đặc, gia Qua lâu bì, Đông qua nhân 12g, Kiết cánh 10g.
– Nếu ho suyễn nhiều, gia Tang bạch bì 15g, Đình lịch sử 10g, Hạnh nhân 10g, Xa can 10g, Chích ma hoàng 6g.
– Nếu ho đàm có máu, gia Mạch mao căn 30g, Tiên hạc thảo 30g.
– Nếu tiểu ít mà màu vàng đỏ thì gia Xa tiền tử 15g, Hoàng bá 12g.
– Cơ thể mệt mỏi, khí huyết suy kiệt, gia thêm Hoàng kì 15g, Đảng sâm 12g.
Hiệu quả lâm sàng: Đã điều trị 20 ca viêm phổi đều khỏi bệnh. Ngoài ra, dùng bài thuốc này có gia giảm để trị 20 ca lao phổi cũng có kết quả rất tốt.
Một trường hợp điển hình như sau:
Vương Tấn Hùng 29 tuổi, phát bệnh đã 5 ngày, sốt cao, ho đàm khò khè, đàm có màu rỉ sắt, thở gập, miệng khát, tiểu ít mà vàng, người bực bội không yên, chán ăn, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch đi hồng hoạt sác.
Xét nghiệm máu đếm bạch cầu 26,100/mm3, trung tính 91%. Chiếu X-rays chuẩn đoán viêm phổi.
Đã dùng penicillin điều trị nhưng kết quả không hoàn hảo. Vì là đàm nhiệt thượng nghịch, nhiệt làm thương tổn phế lạc, phổi mất chức năng thanh tuyên, phải dùng pháp “thanh nhiệt tiêu độc, hoạt ứ tuyên phế” thì mới mong thay đổi tình hình. Sau khi cho uống 7 thang “Phúc phương thanh độc hoạt ứ thang” gia thêm Đông qua nhân 12g, Hạnh nhân 10g, Tang bạch bì 15g, Đình lịch sử 10g, Xa tiền tử 15g, Tiên hạc thảo (sao đen) 12g, chích ma hoàng 6g, uất kim 10g. Mọi chứng tiêu tan, người khỏe như chưa từng có bệnh.
- Bài số 22: Viêm phổi
– Biện chứng Đông y: Phong ôn phạm phế, ứ nhiệt nội uẩn.
– Pháp trị: Thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết hóa ứ, khu đàm chỉ khái
- Bài thuốc: “kế thái thang”
Công thức:
Áp chỉ thảo 60g (cỏ chân vịt); Tiểu kế 30g; Hổ trượng căn 30g; Bồ công anh 30g; Bình địa mộc 30g; Hoàng cầm 25g; Ngư tinh thảo 30g; Bại tương thảo 30g.
Sắc uống ngày 1 thang, chia làm 3 lần. Những ca bệnh nặng, uống ngày 2 thang, chia làm 6 lần.
Hiệu quả lâm sàng: Đã điều trị 59 ca viêm phổi gồm 39 nam, 20 nữ, tuổi từ 13 – 50, đều thuộc diện nội trú (nhập viện), chỉ trong vòng 3 ngày, khỏi bệnh 52 ca (đạt 88%), 7 ca còn lại không giảm sốt phải đổi phương thang mới lành.
- Bài số 23: Áp xe (Absces) phổi
– Biện chứng Đông y: Ngoại cảm phong ôn tích độc, tà kết tập tại phế làm tổn thương huyết mạch, huyết bị hỏa đốt sinh ung thối làm mủ
– Pháp trị: Thanh nhiệt giải độc, khử đàm bài nùng (mủ)
- Bài thuốc: “Thanh nhiệt bài nùng thang”
Công thức:
Đông qua tử 30g; Kim ngân hoa 30g; Bồ công anh 30g; Sinh ý dĩ nhân 30g; Tiên lô căn 60g; Kiết cánh 10g; Mẫu đơn bì 10g; Chỉ thực 10g; Đình lịch tử 10g; Xuyên bối mẫu 10g; Đào nhân 10g; Tử tô tử 10g; Hoàng cầm 15g.
Sắc uống ngày 1 thang, chia làm 2 lần.
Hiệu quả lâm sàng: Lê Chí Thọ 45 tuổi, sốt cao, ho nôn ra đàm có lẫn mủ, mùi hôi thối, ngực đau, thở gấp, miệng khát, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch di hoạt sác hữu lực, chẩn đoán Phế ung (áp xe phổi). Cho uống bài “Thanh nhiệt bài nùng thang” liên tiếp 2 tháng, các chứng đều giảm, chỉ có đàm là có mùi hôi. Giữ nguyên phương cho uống thêm 5 thang nữa, đàm tiêu, hết mùi thối, khỏi bệnh.
Bàn luận: Điều trị bệnh phế ung (áp xe phổi), trước hết phải nhận rõ hư thực. Nếu đột nhiên bị sốt cao, ho đàm dính mà thối, ngực đau, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch đi hoạt sác hữu lực thì đúng là thực chứng. Pháp trị “Cấp tắc trị kỳ tiêu” (lúc khẩn cấp nên trị liệu chứng, trị ngọn), tức thanh phế nhiệt và bài nùng là chủ yếu, dùng lượng thuốc phải nhiều mới có hiệu quả. Khi bệnh đã lâu, mủ đình tích đây trong phổi, thì phải dùng phương pháp “hoạt huyết bài nùng, thanh nhiệt giải độc” để bảo toàn phế khí, tái tạo tân dịch mới khỏi bệnh.
- Bài số 24: Áp xe (absces) phổi
– Biện chứng Đông y: Phong nhiệt phạm phế, nhiệt đốt tân dịch thành đàm, đàm nhiệt ngăn lấp phế lạc gây thương tổn thành mủ
– Pháp trị: Thanh nhiệt giải độc, khu đàm bài nùng (tiêu mủ)
- Bài thuốc: “Vĩ kinh thang hiệp Kết cánh thang gia giảm”
Công thức:
Vĩ căn 50g; Kiết cánh 50g; Đông qua nhân 50g; Ngư tính thảo 50g; Sinh ý dĩ nhân 25g; Kim ngân hoa 25g; Qua lâu nhân 25g; Hoàng cầm 25g; Cam thảo 25g; Liên kiều 20g.
Sắc uống ngày 1 thang. Bài này đã trị 11 ca ép xe phổi đều khỏi bệnh trong vòng 2 tháng
- Bài số 25: Áp xe (abscess) phổi
– Biện chứng đông y: Tà nhiệt ẩn lâu ngày không tan, phổi bị nhiểm thành mủ
– Pháp trị: Thanh nhiệt giải độc, khử đàm bài nùng (trừ mủ)
- Bài thuốc: “Phức phương ngư cát thang”
Công thức:
Ngư tinh thảo 30g; Kim ngân hoa 30g; Đông qua nhân 30g; Sinh ý dĩ nhân 30g; Kiết cánh 15g; Hoàng cầm 10g; Đào nhân 10g; Triết bối mẫu 10g; Cam thảo 05g.
Sắc uống ngày một thang, bệnh nặng có thể uống ngày 2 thang
Gia giảm: Nếu nhiệt nặng, gia thêm Hoàng liên 10g. Nếu chính khí suy, gia thêm Hoàng kỳ 15g, Đảng sâm 15g.
Hiệu quả lâm sàng: Đã điều trị 40 ca áp xe phổi, tỉ lệ lành bệnh đạt 97%.
- Bài số 26: Áp xe (absces) phổi
– Biện chứng Đông y: Thấp nhiệt nội uẩn, nhiệt độc thương phế.
– Pháp trị: Thanh nhiệt giải độc, trừ đàm khứ ứ.
- Bài thuốc: “Sinh hoàng đậu tương”
Công thức:
Hoàng đậu (đậu nành) 500g.
Cách làm: Đậu nành rửa sạch, ngâm vào nước ấm cho nở ra, xay nhuyễn với nước, lọc bỏ bã là được sữa đậu nành sống.
Cách dùng: Ngày uống 3 lần, mỗi lần 300ml. Uống liên tục đến khi sợ nước đậu nành thì thôi.
Hiệu quả lâm sàng: Trần Văn Lực 58 tuổi, ho khạc đàm gần nửa năm, ngực bức bối khó chịu, lúc đầu sốt lạnh, sườn đau, mỗi lần ho là đau ngực không chịu nổi, có lúc khạc ra một lượng lớn máu lẫn mủ, mùi rất thối, cơ thể gầy gò, khô họng, lưỡi vàng bẩn, mạch đi hoạt sác.
Bảo người bệnh nhai đậu nành sống để chuẩn đoán thì bệnh nhân cho biết miệng có vị thơm ngọt. Cho uống sinh hoàng đậu tương (sữa đậu nành sống) hơn 10 ngày thì mủ giảm mạnh, giảm sốt ăn khá hơn. Cho uống luôn 20 ngày, bệnh nhân cảm thấy sữa đậu nành có vị tanh không nuốt nổi nửa nên ngưng uống, bệnh khỏi.
Bàn luận: Đậu nành sống là một bài thuốc tuy đơn giản nhưng có công hiệu cao trong bệnh áp xe phổi, đặc biệt vào thời kì nung mủ thì sốt cao, khi vỡ mủ thì thân nhiệt hạ xuống bình thường nhưng khạc ra nhiều máu mủ hôi thối, Sữa đậu nành sống có tác dụng thanh nhiệt, khử đàm, giải độc, tống mủ ra ngoài, câm máu sinh cơ, bổ phế phù chính
Trên lâm sàng, dùng đậu nành sống nhai nuốt là phương tiện chẩn đoán bệnh rất chính xác. Nếu bệnh nhân cảm thấy đậu nành sống có vị thơm ngọt hay ngọt thì hầu hết mắc bệnh áp xe phổi, còn cảm thấy vị tanh hôi thì đa số không phải bệnh áp xe phổi. Điều này chưa được khoa học chứng minh nhưng có giá trị gần như tuyệt đối. Ngoài ra, dùng ngư tinh thảo (rau diếp cá), có vị tanh như đậu nành, trị áp xe phổi cũng đạt kết quả tương tự. Các nhà nghiên cứu còn chưa hiểu tác dụng bài nùng (khử mủ) là do vị tanh của cá hay do hoạt chất nào khác.
- Bài số 27: Áp xe (abscess) phổi
– Biện chứng Đông y: Nhiệt độc gây tổn thương huyết mạch, nhiệt ứ thành ung, huyết bại thành mủ.
– Pháp trị: Dưỡng âm thanh phế, hóa ứ bài nùng.
- Bài thuốc: “Bách hợp bạch cập trư nhục thang”
Công thức:
Bách hợp 120g; Bạch cập 60g; Thịt neo nạt (lượng vừa đủ).
Cách làm và dùng: Trước hết, xay hay giã 2 vị thuốc thành bột mịn. Mỗi lần dùng 06g bột thuốc quết với một miếng thịt heo nạt cho nhuyễn rồi hòa thêm ít nước vào trộn đều như hồ đặc, đem chưng cách thủy. Ăn mỗi ngày 1 lần.
Hiệu quả lâm sàng: Lê Xuân Nhân 25 tuổi. Cách đây 1 năm bắt đầu ho, thở nhanh gây ốm. Mấy tháng sau bỗng ho khạc cả máu lẫn mủ, mùi tanh gớm, ngực đau, sốt về chiều, ban đêm ngủ đổ mồ hôi trộm, miệng khô, họng ráo, mạch đi hoạt.
Sau khi cho ăn “Bạch hợp bạch cập trư nhục thang” hơn 2 tháng, dứt hẳn khạc ra máu mủ, sốt cũng lui, chỉ còn thấy đau ngực, thỉnh thoảng ho, ăn kém. Liền đổi qua bài “Tứ vị thang” gồm đảng sâm 30g, bạch truật (sao cám) 15g, Phục linh 15g, Chích cam thảo 06g, gia thêm Hoàng kỳ 20g để bổ dưỡng Phế khí. Uống 6 thang thì khỏi bệnh.
Bàn luận: Bài thuốc dùng Bách hợp để dưỡng âm thanh phế, Bạch cập để chỉ huyết tiêu viêm trừ mủ sinh cơ, Trư nhục là để bổ dưỡng phù chính.
- Bài số 28: Viêm màng phổi tràn dịch
– Biện chứng đông y: Phế hư phục cảm ngoại tả, nước đình tích trong phổi
– Pháp trị: Lý phế thanh nhiệt, lợi khí khử đàm
- Bài thuốc: “Tiểu sài hồ thang gia giảm”
Công thức:
Sài hồ 15g; Huyền sâm 15g; Chế bán hạ 15g; Qua lâu nhân 25g; Chỉ xác 15g; Trần bì 15g; Tang bạch bì 15g; Bạch giới tử 10g; Cam thảo 05g.
Sắc uống ngày 1 thang, sắc 2 nước chia làm 3 lần uống trong lúc bụng đói.
Hiệu quả lâm sàng: Vương Thị Nữ 46 tuổi, cho biết đã từng có triệu chứng tức ngực, khó thở, ban đêm nặng hơn ban ngày, nằm nghiêng bên trái cảm thấy tức muốn nghẹt thở. Khám ở một bệnh viện, chẩn đoán bị viêm màng phổi, dùng penicillin và streptomycin điều trị nhưng không thấy kết quả. Bệnh nhân tức ngực, thở mệt như bị nghẹt, chán ăn, táo bón, nước tiểu vàng, đầu nặng, chân tay nặng nề, rêu lưỡi trắng, mạch di huyền. Chiếu X-rays, xác định bệnh viêm màng phổi tràn dịch.
Sau khi uống 3 thang “Tiểu sài hồ thang gia giảm”, cơn ho giảm, thở thông suốt. Cho uống liền 1 thang, bệnh nhân tự thấy ngực nhẹ, thở sâu, mọi chứng đều lui. Chiếu X-rays kiểm tra thấy góc sườn hoành trái còn một ít dịch. Vẫn giữ bài thuốc cũ, cho uống tiếp một thang nữa, bệnh khỏi hoàn toàn.
- Bài số 29: Bệnh xạ khuẩn phổi
– Biện chứng đông y: Hỏa độc uất bế, khí huyết ngưng trệ
– Pháp trị: Thanh nhiệt giải độc, khai thông uất trệ
- Bài thuốc: “Bồ công anh hợp thể”
Công thức:
- Bài 1:
Bồ công anh 30g; Liên kiều 20g; Kim ngân hoa 15g; Hoàng cầm 10g; Huyền sâm 10g; Sinh mẫu lệ 10g; Sinh địa 10g; Kiết cánh 06g; Sơn chỉ tử 06g; Trúc diệp 06g; Sài hồ 05g; Bạc hà diệp 05g; Xích dược 05g; Cam thảo 03g; Hoàng liên 02g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài số 2:
Hoàng kỳ 15g; Bồ công anh 15g; Liên kiều 12g; Kim ngân hoa 12g; Nhân sâm 10g; Đương qui 10g; Quất hồng bì 10g; Sinh địa 06g; Bạch truật 06g; Phục linh 06g; Hắc táo nhân 06g; Sinh mẫu lệ 06g; Kiết cánh 06g; Cam thảo 03g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Võ Thái Hùng 57 tuổi, trước khi ho đàm, thở ngắn, đau tức vùng ngực trái, khạc ra đàm đầy bọt. Gần đây bỗng ho khạc đàm có dịch dầy mủ, ho khạc liên tục, vùng lưng nơi bả vai đau lịch liệt, tiếp theo vùng dưới nách trái và dưới vai trái xuất hiện mỗi chỗ 1 khối sưng, rất đau.
X – rays thấy xoang phổi trái tràn dịch, rốn phổi trái có một mảng mờ. Xét nghiệm đàm dịch nhầy có mủ chưa tìm thấy trực khuẩn kháng acid. Lúc đầu cho dùng thuốc kháng lao và penicillin, khối u sau nách trái mềm dần. Cho chọc dẫn lưu thấy trong nước mủ chảy ra có rất nhiều hạt diêm sinh. Tiếp sau đó khoảng 2 tuần, khối u ở trước nách tự vỡ mủ và trong mủ cũng thấy rất nhiều hạt diêm sinh. Dựa vào tình trạng bệnh đã xâm nhập phổi, chẩn đoán là nhiễm xạ khuẩn phổi. Cho dùng penicillin nhưng không thấy hiệu nghiệm liền chuyển sang đông y.
Trước hết, cho uống “bồ công anh hợp tễ” bài 1, gần 1 tháng, giảm ho nhiều, đàm nhầy mủ chuyển sang dịch nhầy, nhọt mủ ở thành ngực chuyển biến tốt, thể lực tăng cao. Liền đổi sang bài 2, sức khỏe hồi phục rất nhanh, mọi triệu chứng gần như biến mất. Tiếp tục cho uống bài 2 hơn 1 tháng nữa rồi tái khám, chiếu X-rays thấy phổi sạch, dịch nhầy đã hết, lỗ rò ở trước và sau nách đều khép miệng, lành bệnh.
- Bài số 30: Chứng lắng đọng albumin bọt phổi
– Biện chứng đông y: Khú hư hạ hãm, huyết ứ đường lạc, đàm trọc không hóa.
– Pháp trị: Bổ phế trục ứ hóa đàm.
- Đơn thuốc: “Thăng hãm thang gia vị”
Công thức:
Sinh hoàng kỳ 25g; Sinh ý dĩ nhân 25g; Tử đan sâm 15g; Tri mẫu 10g; Sài hồ 10g; Kiết cánh 10g; Đương qui 10g; Xuyên khung 10g; Tuyền phục hoa 10g (bỏ vào túi vải); Hải phù thạch 10g (bỏ vào túi vải); Đình lịch tử 10g; Thăng ma 03g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Trương Kính Nam 44 tuổi, có thời gian ho khạc đàm, đau ngực, khó thở phải vào bệnh viện cấp cứu. Nay bệnh lại tái phát nặng, ho đàm liên tục, ngạt thở phải đưa vào bệnh viện cấp cứu lần thứ 2. Nơi đây cho mở lồng ngực làm sinh thiết phổi, chẩn đoán là chứng “lắng đọng albumin bọt phổi”. Đã dùng heparin hòa trong nước muối sinh lý phun sương siêu âm cho bệnh nhân hít vào; một mặt dùng đông dược hoạt huyết hóa ứ điều trị luôn 6 tháng nhưng không thuyên giảm, xin chuyển qua đông y.
Sau khi đông y hội chẩn, cho uống 6 thang “Thăng hãm thang gia vị” kèm với hít thuốc phun sương siêu âm, thấy các triệu chứng giảm mạnh, ăn uống tăng lên, thở khỏe, chỉ còn hiện tượng nhiều đàm. Giữ nguyên bài thuốc, gia thêm hạnh nhân 12g, cho uống tiếp 30 thang, hết đàm, ăn nhiều, đi lại nhanh nhẹn, thở sâu hết mệt. Tập vận động, sau 2 tuần lễ có thể chạy bộ đến 3000 mét, bệnh kí coi như ổn định, cho xuất viện.
Nhằm cũng cố sức khỏe, cấp cho bệnh nhân thêm một thang thuốc mang về nhà sắc uống, theo dõi hơn 3 năm không thấy bệnh tái phát.
Công thức bài thuốc sau đây:
Sinh hoàng kỳ 25g; Đảng sâm 15g; Đông qua tử 30g; Tuyền phục hoa 15g (bỏ vào túi vải); Đại cáp tán 10g (bỏ vào túi vải); Tri mẫu 10g; Kiết cánh 10g; Sài hồ 10g; Tử uyển 10g; Hạnh nhân 10g; Bạch tiền 10g; Thăng ma 03g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài số 31: Tích huyết phổi (do chấn thương vùng ngực)
– Biện chứng đông y: Ngoại thương ứ huyết
– Pháp trị: Hoạt huyết hành ứ
- Bài thuốc: “Qua đế đào nhân hồng hoa thang”
Công thức:
Đào nhân 30g; Hồng hoa 30g; Qua đế 10g.
Sắc nước cho đặc uống
Hiệu quả lâm sàng: Trần Minh Mẫn 18 tuổi, bị bạn dùng cây đánh trúng vùng ngực, đau nhứt khó thở. Hôm sau bệnh trầm trọng, ôm ngực vì đau, muốn tắt thở. Một bệnh viện khám thấy mạch đập trầm đứt quãng, gõ vùng phổi 2 bên đều có tiếng đục dày đặc, tiếng tim nhỏ yếu. Khám nhưng không điều trị, bệnh nhân phải tới bệnh viện đông y.
Sau hội chẩn, biết rõ do ứ huyết trong phổi, liền cho uống ngay bài thuốc “Qua đế đào nhân hồng hoa thang”, chỉ một thang bệnh nhân nôn ra hàng chén máu bầm đen. Bệnh khỏi.
Bàn luận: Bài thuốc này xuất xứ ở Đài Loan, ghi trong sách “Trung Y dụng dược bí pháp kỉ nghiệm tập” với lời dẫn giải: “Bệnh ứ huyết do chấn thương tuy nguy ngập vì muốn làm tiêu tán không phải dễ, nhưng nằm ở ngực thì có thể cho nôn ra, so với các pháp tiêu, hạ, châm cứu thì lợi hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đó là ý nghĩa của y thuật Đông phương.
Dạy trị ho đàm xưa nay có nhiều sách nhiều thầy, thuốc trị ho đàm có nhiều loại nhiều phương, nhưng dựa trên lí luận và tính hiệu quả có lẽ không vị thầy thuốc cổ truyền nào giỏi hơn Phó Sơn tự Thanh Chủ, một danh y Trung Hoa sống vào triều đại vua Khang Hy, Nhà Thanh. Trong quyển sách “Nam Nữ Khoa” của Phó Thanh Chủ, ông giành trọn một chương nói về “Đàm Thấu” (ho đàm) với lời phê bình rất xác đáng
– “Cổ nhân lập ra phương pháp trị bệnh đàm đều là trị cái ngọn mà không hay trị cái gốc bệnh của đàm. Nào thuốc trị thượng tiêu đàm, Trung tiêu đàm, hạ tiêu đàm, Cửu bệnh đàm, tạm thời đàm nhưng thực ra không có thực hiệu”. Với kiến thức y học uyên bác, từng được vua Khang Hy nhà Thanh ban chiếu chỉ phong chức “Bác học hoành từ” nhưng nhất mực không nhận, Phó Thanh Chủ đưa ra bí quyết trị chứng khái thấu bằng một câu nói độc đáo, đầy tính thuyết phuc:
“Nay lập ra 3 phương gồm So bệnh đàm, Dĩ thành đàm và Cữ bệnh đàm để trị đàm. Tất cả các bệnh đàm đều không thể ra khỏi phạm vi ấy”
Nhận thấy y thuật quá hay, sử phương chính xác, đã từng ứng dụng cho hàng ngàn bệnh nhân điều trị có kết quả mĩ mãn suốt hơn 30 năm qua, nay xin chép lại nguyên chương các bài thuốc trị “Đàm Thấu” của danh y Phó Thanh Chủ nhầm tiếp tục bảo tồn di sản y học hiếm quý của nhân loại
- Bài số 1: “Sơ Bệnh Chi Đàm” (Bệnh đàm mới phát)
Cảm gió, ho, khạc mửa ra đàm nên dùng:
Trần bì 10g; Chế bán hạ 10g; Thiên hoa phấn 10g; Phục linh 10g; Tử tô tử 10g; Cam thảo 10g.
Sắc uống ngày một thang, uống 2 thang có thể tiêu hết đàm.
Phương thuốc này trị đàm ở thượng tiêu (một trong Tam tiêu, là khối khí đạo vô hình nằm trên vùng Vị quản, chủ về dẫn khí). Đàm Thượng tiêu vốn gốc ở trong dạ dày chứ không phải ở phổi. Khi khử được cái đàm ở trong dạ dày rồi thì Phổi tự nhiên thanh hòa yên tĩnh. Phổi đã thanh hỏa thì làm sao cái hỏa có thể thương thăng được?
Ghi chú: Theo nguyên phương, mỗi vị thuốc bằng nhau 1 chỉ (tương đương 3 – 4g) nhưng xét rằng thời đại ngày nay con người đã quen dùng thuốc với liều cao, nên cần phải tăng liều lượng lên mới đủ sức tác dụng
- Bài số 2: “Dĩ Bệnh Chi Đàm” (bệnh đàm đã hiện thành)
Khi đã thành bệnh đàm rồi hẳn phải xem sắc đàm mà phân biệt. Đàm máu trắng là lúc hỏa đang đốt cháy, còm đàm màu vàng là lúc hỏa đang hạ. Lúc hỏa đang đốt cháy thì nên dùng thuốc “hàn tương”, lúc hỏa hạ xuống nên dùng thuốc “Khử trục”. Nay chỉ dùng 1 phương dưới đây mà trị được cả 2:
Bạch truật (sao) 12g; Bạch giới tử (sao) 12g; Phục linh 16g; Trần bì 04g; Cam thảo 04g; Chỉ xác 02g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Nếu có hỏa thì gia thêm Chi tử 04g, không có hỏa thì bất tất phải gia. Phương thuốc này khứ thấp kiện Tỳ, trị bệnh đàm ở Trung tiêu (một trong Tam tiêu, là khí đạo nằm giữa vị quản lo việc nghiền chính đồ ăn thức uống, chủ về tiêu thực)
Lại có một phương tương dụng:
Bạch truật (sao) 20g; Phục linh 20g; Ý dĩ nhân (sao) 20g; Ích trí nhân (bỏ vỏ) 12g; Thiên hoa phấn 08g; Trần bì 04g; Nhân sâm 02g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Nếu có hỏa thì gia Hoàng cầm 04g, không có hỏa thì gia Can khương 04g, Cam thảo 02g. Phương thuốc này khứ thấp kiện tỳ mà không háo khí, uống 2 thang đàm tự nhiên tiêu hết.
- Bài số 3: “Cửu Bệnh Chi Đàm” (Bệnh đàm đã lâu)
Những người mắc bệnh đã lâu mà lắm đàm, nhất định không thể qui trách do “Tỳ thấp sinh đàm” mà chính vì “Thận thủy khuy tởn”. Nếu không phải do Thận thủy tốc lên thành đàm thì cũng thận hỏa bốc lên thành đàm. Vậy phải bổ thận (âm hoặc dương) để khử trục đàm theo bài thuốc sau đây:
Thục địa 40g; Ý dĩ nhân (sao) 40g; Hoài sơn (sao) 20g; Sơn thừ nhục (sao) 20g; Mạch môn (khú tâm) 20g; Khiếm thực (sao) 20g; Ngũ vị tử (sao) 12g; Phục linh 12g; Ích trí nhân (bỏ vỏ) 08g; Xa tiền tử (sao) 04g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Phương thuốc này là thánh dược trị bệnh Thận thủy rẫy lên làm đàm. Nếu do thận hỏa tốc lên làm đàm thì gia Nhục quế 04g để bổ Thận, khứ thấp mà hóa đàm. Đã dẫn nước vào được thận cung thì nước ấy biến thành chân tinh, chẳng bao giờ còn sinh đàm. Đây là phương trị đàm ở Hạ tiêu (một trong Tam tiêu, vùng khí đạo nằm sát bên Bàng quang, chủ về bài tiết).
Lại một phương trị đàm Hạ tiêu cũng rất hay, tức bài “Lục vị địa hoàng thang” gia giảm:
Thục địa 32g; Hoài sơn 16g; Sơn thù nhục 16g; Phục linh 12g; Trạch tả 12g; Mẫu đơn bì 12g; Mạch môn (khứ tâm) 16g; Ngũ vị tử 08g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Nếu không có hỏa, gia nhục quế 04g, Thục phụ tử 04g.
Có thể tăng số lượng mỗi vị lên để làm thuốc hoán, ngào với mật ong làm tể, mỗi hoàn nặng cỡ 12g, ngày nhai nuốt 2 – 3 lần, mỗi lần 1 hoàn. Trị bệnh những người tuổi còn trẻ mà chân Thủy thiếu, chân Hỏa vượng làm ra gầy ốm, nóng hầm trong xương, đổ mồ hôi trộm, di tinh, đi cầu ra máu, tiểu nóng gắt, viêm đường tiểu, phụ nữ ra huyết trắng dầm dề, tiểu đục.
- Bài số 4: “Trệ đàm” (đàm dính, khó khạc)
Trệ đàm là đàm dẻo, dính sít ở cổ họng khạc mãi khó ra. Đàm mà trệ là bởi khí trệ, nếu không bổ khí mà chỉ lo khử đàm thì chẳng bao giờ hết đàm. Nên dùng phương dược dưới đây:
Phục linh 12g; Bạch truật (sao) 08g; Nhân sâm 04g; Trần bì 04g; Thiên hoa phấn 04g; Bạch giới tử (sao) 04g; Tô tử (sao) 04g; Bạch đậu khấu nhân 02 quả.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài số 5: “Thấp đàm” (đàm lạnh)
Thấp đàm là loại màng nhầy, khi ho khạc ra ít đàm mà nhiều nhớt dãi, do thấp tích tụ lại. Pháp trị đàm loại này không thể chỉ khử thấp mà phải bổ khí trước rồi gia thêm vài thứ dược vị để hóa đàm thì mới có công hiệu
Nhân sâm 30g; Ý dĩ nhân (sao) 15g; Phục linh 10g; Chế bản hạ 10g; Thần khúc 10g; Trần bì 03g; Cam thảo 03g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Ý nghĩa: Phương thuốc này dùng Thần khúc, nhiều người không hiểu bảo rằng Thần Khúc là vị tiêu thực làm sao mà hóa đàm cho được. Bởi không hiểu đàm mà đã kết tụ, dính chặt với nhau thì rất khó tiêu hóa, phải dùng Thần khúc để phát động thì đàm tích tụ sẽ khai thoát, tiếp theo có Trần Bì, Bán Hạ hiệp lực thì mới có thể thu công. Nhưng nếu chỉ dùng Trần Bì, Bán hạ để tiêu đàm mà không dùng nhiều nhân sâm để bổ khí thì đàm cũng khó tiêu tán. Nay đã có nhân sâm trợ khí, lại có Ý dĩ, Phục linh để kiện Tỳ khứ Thấp thì lo gì không khứ trục được đàm.
- Bài số 6: “Hàn Đàm” (đàm lạnh)
Hàn đàm là thứ đàm khi ho khạc ra thấy ít đàm, nhiều nhớt dãi như thấp đàm nhưng lại tanh gớm. Những người Tỳ Vị hư hàn là bởi khí hư nên ho ra đàm nhớt tanh và lạnh, ắt phải dùng phương thuốc trị Thấp đàm vừa nêu trên mà gia thêm Nhục quế, can khương là đúng lý. Bài thuốc như sau:
Nhân sâm 30g; Ý dĩ nhân (sao) 15g; Phục linh 10g; Chế bán hạ 10g; Thần khúc 10g; Trần bì 03g; Nhục quế 10g; Can khương 02g.
Sắc uống ngày 1 thang.
- Bài số 7: “Nhiệt Đàm” (đàm nóng ráo)
Nhiệt đàm là loại đàm nóng ráo mà chỉ có ở những người thể dương khí hư mới kết tụ thành hình. Nên dùng phương dược sau đây:
Đương qui 12g; Bạch thược 08g; Mạch môn đông 08g; Phục linh 08g; Cam thảo (sao) 04g; Bạch giới tử 04g; Thiên hoa phấn 04g; Trần bì 04g; Thần khúc 03g.
Sắc uống ngày 1 thang
- Bài số 8: “Lão Đàm” (Đàm lâu năm)
Lão đàm là thứ đàm tích tụ ở trong bụng lâu ngày, nhiều năm không sao tiêu hóa cho được. Chỉ có bài thuốc dưới đây mới có thể trục xuất nổi lão đàm:
Bạch giới tử (sao) 12g; Sài hồ 04g; Phục linh 04g; Cam thảo 04g; Trần bì 04g; Mẫu đơn bì 04g; Thiên hoa phấn 04g; Bạch thược (sao) 04g; Ý dĩ nhân (Sao) 04g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Ý nghĩa: Phương thuốc này rất hay là nhờ dùng Bạch giới tử làm quân (đầu vị), Ý dĩ nhân, bạch thược làm thần, Sài hồ, Thiên hoa phấn làm tá sứ để trị lão đàm. Đã nói là lão đàm, tức là thứ đàm tàng tích trong con người, chỗ nào cũng có đàm. Bởi vậy phải uống tới 10 thang trở lên mới tiêu hóa được lão đàm.
- Bài số 9: “Ngoan Đàm” (đàm đặc như keo)
Ngoan đàm là thứ đàm thường sẵn có mà đặc sít như keo, khạc mãi khó ra, luôn cảm thấy có vật gì vít lấp đầy trong cổ họng. Nên dùng:
Bạch truật (sao) 15g; Xuyên bối mẫu 10g; Chế bán hạ 10g; Phục linh 10g; Thần khúc 06g; Cam thảo 03g; Kiết cánh 03g; Bạch phàn 03g; Tử uyển (sao) 03g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Ý nghĩa: Phương thuốc này hay bởi Bán hạ, Bối mẫu dùng chung, Bán hạ thì táo đàm còn Bối mẫu thì nhuận đàm làm cho đàm dễ nong ra không còn chỗ nào để ẩn trốn, lại có Bạch phàn để tiêu hủy những khối đàm đã kết thành cục, Kiết cánh và tử uyển thì để khử tà, Cam thảo để điều trung, chắc chắn ngoan đàm sẽ mất
- Bài số 10: “Thủy Phiếm Vi Đàm” (nước ở thận tốc lên thành đàm)
“Thủy” ở trong thận, hễ có “hỏa” tương liên thì thủy bình hòa, nếu không có hỏa tương liên thì thủy tốc lên, đó là lẽ thường. Những người ít dâm dục phóng đãng thì giữ gìn được thủy hỏa, còn lạm dụng phòng dục quá độ thì chân thủy hao mòn, hỏa cũng tiết đi, lâu ngày thủy hư và hỏa cũng hư. Hỏa đã hư thì thủy không còn chỗ ẩn tàng ắt phải lan tràn và rẫy lên làm đàm. Vậy vái đàm nói ở đây là thận hỏa hư mà Thận thủy rẫy lên làm đàm
Muốn đè nén thủy xuống, trước phải làm cho hỏa ở dưới được ấm áp để Hỏa giữ Thủy lại. Vậy phải bổ thận thủy cần gia thêm thuốc “đại nhiệt” để bổ thận hỏa. Một khi Hỏa đủ ấm để ôn Thủy thì Thủy Hỏa có cái đạo “ký tệ” (sinh sản) nên Thủy bình hòa không còn rẫy lên làm đàm nữa. Nên dùng:
Thục địa 240g; Sơn thù nhục (sao) 15g; Nhục quế 06g; Ngưu tất 10g; Ngũ vị tử 03g.
Sắc uống ngày 1 thang
Chỉ 1 thang đàm dẫn xuống, 1 thang đàm tự nhiên tan biến.
- Bài số 11: “Trúng khú hựu trúng đàm” (Trúng khí và trúng đàm)
Trúng khí, trúng đàm, tuy nói 2 bệnh khác nhau nhưng thực tế chỉ có một bệnh trung khí. Bởi lẽ khí mà hư thì tự nhiên sinh ra nhiều đàm, còn đàm mà nhiều thì tất nhiên háo khí, tuy phân ra 2 mà thành 1. Nên dùng:
Nhân sâm 30g; Cam thảo 30g; Chế bán hạ 10g; Chế nam tinh 10g; Phục linh 10g; Phụ tử 03g.
Sắc uống ngày 1 thang
Ý nghĩa: Nhân sâm vốn là thần dược bổ khí đồng thời là thánh dược để tiêu đàm, Bán hạ với Nam tinh tuy là diệu dược để trục đàm nhưng lại là chinh dược để trợ khí, còn phụ tử, Cam thảo một vị nhân một vị dũng giúp nhau chỉnh đốn thì khí và đàm không còn hỗn loạn.
- Bài số 12: “Thấp thấu” (Bệnh do thuộc thấp)
Mùa thu cảm nhiễm, Thấp khí mà sinh ho, nếu dùng nhiều loại Ô Mai, Túc Xác để liễm thấp hẳn là không có công hiệu. Nên dùng:
Bạch truật 10g; Kiết cánh 05g; Chỉ xác 05g; Cam thảo 05g; Đương quy 05g; Trần bì 05g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Uống 3 thang là lành bệnh. Nếu mùa đông cảm hàn khí mà ho cũng đều do cảm thấp khú từ mùa thu, hà tất phải cố chấp đông nguyệt thụ hàn tà.
- Bài số 13: “Cửu thấu” (Bệnh ho đã lâu)
Bệnh ho lâu năm nên dùng:
Nhân sâm 15g; Hắc táo nhân 10g; Bạch thược (sao) 06g; Ngũ vị tử 03g; Bạch giới tử (sao) 03g; Ích trí nhân (bỏ vỏ) 02g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Uống 2 thang rồi chuyển qua uống “Lục vị địa hoàng thang” gồm các vị:
Thục địa 30g; Hoài sơn 16g; Sơn thù nhục 16g; Phục linh 12g; Trạch tả 12g; Mẫu đơn bì 12g.
Sắc uống ngày 1 thang
Ngoài ra, còn có 2 phương dược trị bệnh “Cửu thấu” rất hay sau đây:
- Bài số 14: Ho lâu ngày
Xuyên bối mẫu 120g; Qua lâu nhân 20g (bỏ vỏ, sau hết dầu); Ô mai 20g (bỏ vỏ, sao khô); Hồ đào nhân 08g (giã nát, sao hết dầu); Nhân sâm 04g (tẩm nước đồng tiện, sấy khô); Ngũ vị tử 04g (tẩm rượu, sao khô); Hàn thủy thạch 04g (lấy lửa đốt cho chín); Hạnh nhân 04g (bỏ vỏ, sao khô); Bằng sa 04g (lấy lửa phi chín).
Cách làm: Tất cả tán thành bột mịn, luyện với mật ong làm hoàn to bằng ngón tay trỏ
Cách dùng: Mỗi lần ngậm trong miệng (không nhai) 1 hoàn và nuốt nước để hòa dẫn xuống dần dần, ngày 6 – 8 hoàn. Thuốc này bất kể già trẻ đều dùng được cả, rất công hiệu, uống 10 hoàn đã thấy hay, uống 20 hoàn hết ho. Người bị hư lao mà chưa ho ra máu, mạch đi Sác, đều nên dùng.
- Bài số 15: Ho lâu ngày, cùng có tác dụng như bài số 14
Nhân sâm 04g; Đương qui 08g; Tế trà 04g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống hết nước rồi nhai nuốt luôn cả bã thuốc. Uống vài thang là hết ho.
- Bài số 16: “Phế Thấu Kiêm Bổ Thận” (Trị phổi ho kiêm bổ Thận suy)
Phế mà ho vốn bởi Phế hư thì phải bổ Phế, đó là chuyện đương nhiên, nhưng sao lại nói kiêm bổ cả thận? Bởi vì Phế (Ngũ hành thuộc Kim) nay bị Tâm (Ngũ hành thuộc Hỏa) làm tổn thương (vì Hỏa khắc Kim) ắt phải cầu cứu với con là thận (Ngũ hành thuộc thủy). Nếu con (Thận thủy) không đủ sức mạnh thì lấy gì tiếp trợ cho mẹ là Phế (kim). Cho nên bổ Phế phải kiêm bổ Thận là lấy ý nghĩa bổ sức cho con để cứu mẹ. Nên dùng:
Huyền sâm 20g; Sơn thù 16g; Sa sâm 08g; Thiên môn đông 08g; Ngưu tất 04g; Tử tô tử 04g; Mạch môn đông 04g; Thục địa 04g; Tử uyển 02g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài thuốc Đông y trị ho mang tính chất tham khảo độc giả không nên tự ý bốc thuốc uống khi cần phải gặp bác sĩ đông y để được thăm khám và kê toa. Quý khách có nhu cầu thăm khám và tư vấn miễn phí vui lòng liên hệ:
Thiện Minh Y Quán
ĐC: B14/12/9, Cây Cám, Tân Vĩnh Lộc, TPHCM
ĐT & Zalo: 0904 890 895 – Website: www.thienminhyquan.com