Bướu giáp còn gọi là bướu cổ đơn thuần (simple goitre). Người Việt chúng ta quen dùng thuật ngữ “bướu cổ” để chỉ tất cả trường hợp sưng tuyến giáp nằm ở khu vực trước cổ. Nhiều nhà chuyên môn còn chia bệnh thành 2 loại: “Bướu cổ địa phương” và “Bướu cổ tán phát” nhằm phân định loại bướu cổ xảy ra ở một khu vực dân cư có tỷ lệ mắc bệnh trên 10%, chịu nhiều nguyên nhân chung với loại bướu cổ chỉ xảy ra cho từng người, không làm ảnh hưởng đến đa số dân cư địa phương. Tuy nhiên, giới y khoa đến nay vẫn chưa thống nhất quan điểm về phương diện địa lý, nguyên nhân, sinh lý, lâm sàng… nên đã dùng thuật ngữ có tính tổng quát “Bướu cổ đơn thuần” hoặc “Bướu cổ lành tính” để chí cả bướu cổ địa phương lẫn bướu cổ tán phát.
Bướu cổ đơn thuần, bệnh thường gặp ở nữ giới nhiều hơn nam giới, có thể lan toả và phình to như độn một khối thịt khổng lồ trước cổ do toàn bộ tuyến giáp tăng thể tích. Bướu giáp có loại chỉ có 1 bề mặt thân tuyến giáp. Theo thống kê mới nhất của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) cho biết, số người mắc bệnh bướu cổ đơn thuần trên thế giới hiện nay đã vượt trên con số 250,000,000 người. Đây là một bệnh nội thương mang tính xã hội, rất trầm trọng, vì nó có thể dẫn tới hậu quả làm suy nhược thần kinh và bệnh tâm thần (như chứng bệnh đần độn do bướu cổ).
- Theo y học hiện đại
- Nguyên nhân:
– Qua nhiều cuộc nghiên cứu thực nghiệm cho thấy sự hiện diện của thuỳ trước tuyến yên là yếu tố cần thiết cho việc hình thành và phát triển bướu cổ. Nói cách khác, bướu không thể sinh ra được nếu cắt bỏ tuyến yên.
– Tác dụng sinh sản bướu cổ có sự liên hệ đến vai trò trung gian của hệ dưới đồi – tuyến yên. Nếu cắt bỏ tuyến yên, gây tổn thương vùng dưới đồi hoặc cắt đứt mối dây liên hệ giữ 2 cơ quan này thì bướu cổ cũng không thể phát sinh được.
– Do cường tiết hormone kích thích tuyến giáp (thyroidstimulating hormone – thyrotropin – TSH) nhằm đáp ứng 3 nguyên nhân chính: Thiếu hormone cung cấp cho mô ngoại vi, hoặc mô ngoại vi tiêu thụ quá nhiều hormone hay giảm nồng độ hormone tuyến giáp tuần hoàn.
– Yếu tố nội sinh, trong đó yếu tố di truyền đóng vai trò hàng đầu. Mặt khác có liên quan đến giới tính, nữ giới chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới do nhu cầu hormone tuyến giáp ở nữ giới nhiều hơn và tập trung cao nhất và ở tuổi thanh xuân, giai đoạn có đời sống tình dục sung mãn.
– Yếu tố ngoại sinh, trước hết phải kể đến chất iodine, làm gia tăng khả năng phát sinh bướu cổ địa phương. Iodine, còn gọi là iot, một nguyên tố cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển bình thường của cơ thể. Tuyến giáp vẩn iodine để tổng hợp các hormone tuyến giáp. Thiếu iodine sẽ dẫn đến tới bệnh bướu giáp. Cơ thể một người trưởng thành chứa khoảng 30mg iodine, hầu hết tập trung tại tuyến giáp. Tảo biển (seaweed) là nguồn thực phẩm cung cấp iodine dồi dào nhất. Tuy nhiên, thặng dư iodine cũng sinh ra bướu cổ do ức chế tổng hợp hormone, để tìm thấy ở những người nào sử dụng liều cao iot trong điều trị, các thuốc có chứa sulfamide, PAS, chlorpromazine, phenylbutazone, reserpine, moutarde azote, colchicine. Ngoài ra, một số thực phẩm có nguồn gốc thực vật cũng góp phần làm tăng sinh bướu cổ như: Đậu nành (soybean) làm ức chế việc hấp thụ iot ở ruột, trong khi củ cải (turnip), cải nồi (cabbage), bông cải (caulifower), đậu Hà Lan có tác dụng kháng tuyến giáp.
- Kháng lâm sàng:
Việc xác định bướu cổ qua cách nhìn, sờ nắn, thăm dò bằng các dụng cụ y khoa, nói chung khá dễ dàng. Sau đây là một số hình thức thăm khám thông dụng:
- Nhìn:
Thấy da vùng trước cổ phống lên, nổi u từ thấp đến cao làm cho cổ biến dạng. Có thể chia thể tích bướu cổ thành 5 mức độ:
- Bướu nhỏ, kiểu tuyến giáp hơi to hơn bình thường, khó xác định bằng mắt.
- Bướu trung bình, kiểu tuyến giáp to gấp 2 – 3 lần thể tích bình thường.
- Bướu to, kiểu khối u lan rộng, phía trên thì vượt quá bờ sọ của sụn giáp, phía dưới thì lấn tới đáy cổ, đôi khi chèn ép thần kinh và tĩnh mạch cổ.
- Bướu to, kiểu khối u lan rộng, phía trên lấn tới góc hàm phía dưới tràn tới đáy cổ gây chèn ép tĩnh mạch, thần kinh và đường thanh quản.
- Bướu cổ khổng lồ, kiểu khối u phình to hết mức, lấn tới vùng xương chũm và bờ trước cơ thang.
Khi nhìn phải quan sát cả 2 tư thế: Thẳng và Nghiên. Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO), bướu cổ được chia thành 4 cấp độ:
- Độ I, được quy định khi bệnh nhân nhìn thẳng ra trước không thấy bướu, chỉ khi ngước cổ lên mới thấy bướu hoặc sờ thấy u nhỏ nhô ra khỏi mặt da cổ.
- Độ II, khi bệnh nhân ngước cổ lên thấy ngay bướu.
- Độ III, nhìn thấy bướu dù bệnh nhân nhìn thẳng.
- Độ IV, nhìn từ xa đã thấy bướu cổ nổi cộm.
- Sờ nắn:
Dùng tay miết nhẹ cổ vào cổ bệnh nhân có thể xác định được vị trí, độ dày của bướu. Nếu bướu mới phát triển thì cho cảm giác mềm, bắt đầu tăng sinh tổ chức liên kết thì bướu hơi rắn chắc, còn cứng hoặc cứng như đá thì mạch nhu mô đã trải qua giai đoạn phát triển quá lâu. Tuỳ theo sự tổn thương, bướu được chia thành 2 thể: Bướu lan toả và bướu nhân.
- Bướu lan toả: Nếu thuộc thể nhu mô thì khối u không to lắm, nhẵn, đều, mềm; còn như thể keo thì bướu rất to, khá mềm, nổi u lồi lõm không đều.
- Bướu nhân: Có 1 hay nhiều nhân, nhỏ thì bằng hạt đậu phộng, to thì bằng quả trứng gà hoặc to hơn, không đau, chuyển dịch khi bệnh nhân nuốt.
- Nghe:
Không có tiếng thổi ở bướu cổ đơn thuần. Nếu bị chèn ép bệnh cảm thấy khó nuốt, ho, nấc hoặc khàn tiếng.
- Các thể lâm sàng:
Bình thường, bướu cổ thành lập tại vị trí tuyến giáp trước cổ, nhưng qua lâm sàng bướu giáp còn hình thành nhiều dạng và phát triển bất thường tại một số vị trí ngoài khu vực tuyến giáp.
- Bướu chìm: Là loại bướu phát triển bên trong cơ thể, không nổi lên mặt da, thường gây các dấu hiệu chèn ép.
- Bướu lạc chỗ: Loại bướu cổ thành lập trong lồng ngực, được chia thành 3 thể:
- Bướu giả lạc chỗ là loại bướu vẫn còn dính vào tuyến giáp với 2 kiểu, một ở giữa hoặc sau xương ức, một ở trên hoặc vào xương đòn.
- Bướu lạc chỗ thực sự, là loại bướu không lệ thuộc vào tuyến giáp, có thể gây chèn ép trung nhất.
- Các bướu lạc chỗ khác, là loại bướu tìm thấy ở góc hàm, gây khó nuốt hoặc ở một bên cổ tay hay nằm trong khí quản gây khó thở kịch phát.
- Thăm dò vật lý
– Chụp X-ray cổ và trung nhất trên để xác định vị trí bướu hay sự chèn ép nếu có.
– Nội soi thanh quản để xác định dây thần kinh có bị thương tổn chưa.
– Chụp siêu âm để phân biệt các u nang với các nhân tuyến giáp.
– Chụp bằng nhiệt kế để xác định u nang hay tuyến độ nhờ hiệu ứng nhiệt độ.
- Thăm dò sinh học:
– Thử nghiệm cho thấy iot vô cơ trong huyết tương hạ thấp dưới 0.1Mg/100ml và iot niệu hạ thấp dưới 40Mg/100ml. Kết quả này xác định tình trạng thiếu iodine.
- Tiến triển:
Bướu cổ bám theo con người hàng chục năm, có khi tự biến mất nhưng cũng có thể kéo dài suốt đời. Một số trường hợp bướu cổ tự biến mất hoặc khỏi bệnh nhờ được chữa trị sớm, chúng có khả năng tái phát vào thời kỳ phụ nữ có thai và trong giai đoạn đặc biệt như tuổi dậy thì hay mãn kinh. Thực tế, bướu chỉ teo nhỏ lại chứ không mất đi và dễ xảy ra nhiều biến chứng.
- Biến chứng:
Gây rối loạn chức năng tuyến giáp:
- Bướu cổ làm suy tuyến giáp, gây phù niêm và thường xảy ra bởi các loại keo ở những vùng dân cư miền núi hoặc do làm dụng điều trị bằng thuốc kháng giáp tổng hợp.
- Suy giáp có khả năng tạo ra bệnh đần độn địa phương, gây ảnh hưởng dây chuyền đến con cháu. Về thể chất bệnh nhân là những người lùn, tay chân ngắn. Về tinh thần, bệnh nhân nhận thức chậm chạp, ngu ngơ, si ngốc. Suy giáp còn có thể gây tổn thương thần kinh tới nguy cơ bị câm, điếc hay động kinh.
- Bệnh tăng tuyến giáp, còn gọi là bệnh cường tuyến giáp hay cường giáp (hyperthyoidism) với hội chứng nhiễm độc tuyến giáp, thường gặp dưới 2 dạng: Thành lập một bướu tuyến độ hoặc dạng bướu cổ Basedow tiến triển mau lẹ, gây nhịp tim nhanh, xuất mồ hôi, run rẩy, thèm ăn nhưng sụt cân, lo âu. Nếu là bệnh Graves, còn gọi bướu giáp lộ nhản hay bướu cổ lộ nhản sẽ có thêm các triệu chứng sưng cổ (do tuyến giáp lớn) và mắt lồi ra (chứng lộ nhản). Y khoa hiện đại chữa trị thường phẫu thuật tách bỏ tuyến giáp vì điều trị nội khoa ít có kết quả.
- Biến chứng tại bướu:
Bướu đột nhiên đau và sưng to, gây sốt, dần dần cứng lại. Sau các đợt viêm nhiễm và lan toả, bướu biến thành bướu nhân. trường hợp nặng bướu nhân cứng hoặc to nhanh chóng có nguy cơ thoái hoá ác tính, di căn vào phổi hay xương. Lúc này bướu đã ung thư hoá.
Bướu chèn ép gây nhiều hậu quả nghiêm trọng, từ hiện tượng nuốt vướng, khó thở đến hội chứng tại trung nhất (một khoang chật hẹp của lồng ngực) do chèn ép khí quản gây khó thở, khàn tiếng, khò khè khi hít vào, co kéo cơ ngực. Khi chèn ép 1 bên dây thần kinh quặc ngược sẽ tạo ra giọng đôi, liệt 1 dây thanh đới; nếu chèn ép cả 2 dây thần kinh sẽ bị ngạt thở.
- Theo Đông Y Học
Đông Y Học nói chung, Trung Y nói riêng, đã biết bệnh bướu cổ từ hơn 300 năm trước Công Nguyên. Y văn cổ Trung Quốc gọi bướu cổ là “Anh” hoặc “Anh Khí” hay “Hiệp Anh”. Sách Linh Khu, mục “Kinh mạch thiên” và “Sơn hải kinh” chép rằng, các y gia cổ đại ghi danh bướu cổ là “Anh” và phân thành 3 loại: Huyết anh, Nhục anh và Khí anh. Riêng nền Y học cổ truyền Việt Nam, danh y Tuệ Tĩnh đã phân tích bệnh bướu cổ một cách chi tiết hơn. sách “Tuệ Tĩnh toàn tập”, quyển thứ X về các bệnh ngoại khoa, lý giải rằng bướu cổ tuy được gọi chung là “Anh Lựu” nhưng lâm sàng “Anh” khác với “Lựu” căn cứ vào hình thái và tính chất mà đặt tên:
“Anh” có 5 loại:
- Da thịt không đổi sắc gọi là Nhục anh.
- Gân trước cổ nổi rỏ gọi là Cân anh.
- Mạch máu nổi chàng thịt gọi là Huyết anh.
- Lúc to lúc nhỏ théo thất tình gọi là Khí anh.
- Cứng trơ không chuyển dịch gọi là Thạch anh
“Lựu” cũng phân 6 loại:
- Lựu xương.
- Lựu mỡ.
- Lựu thịt.
- Lựu huyết.
- Lựu mủ.
- Lựu đá
- Nguyên nhân
Trong các y văn cổ Trung Quốc, như sách “Cửu hậu phương” hoặc “Ngại dài bí yếu”, dẫn giải rằng bệnh “Anh” phát sinh phần lớn do dân cư sinh sống tại những khu vực thiếu nguồn dinh dưỡng đặc biệt và biết dùng vị Hải tảo một loài rong biển có chứa chất iodine để điều trị bệnh “Anh”.
Ngoài ra, tình khí (trạng thái tinh thần) cũng góp phần không nhỏ trong việc khởi sinh và phát triển bệnh “Anh”. Sách “Chư bệnh nguyên nhân hậu luận” phân biệt bệnh “Anh” dựa theo một số chứng hậu thường gặp”
- Do Đàm khí uất kết:
Tỳ khí vốn suy yếu, thêm thức ăn nước uống thiếu hoạt hoá làm cho đàm thấp phát sinh. Đàm kết thì khí cơ lưu thông, thuỷ thấp không hoá được tân dịch nên ngưng tụ thành đàm. Đàm thấp càng nhiều thì khí trệ càng tăng.
Bởi tính ý thức hay tức giận, hễ tức giận thì thương Can, Can khí không thông đạt uất lên sinh đàm, đàm khí kết chặt ở cổ mà thành bệnh.
Với hiện tượng hai bên hấu họng to phồng, lan toả, bờ sưng không rõ rệt, sắc da không đổi, ấn vào mềm, không đau, thường kèm các triệu chứng:
Ngực căng trướng khó chịu, sườn đau hoặc trướng đầy, dễ cáu gắt, rêu lưỡi trắng hoặc nhầy nhớt, mạch đi Huyền hoặc Hoạt.
- Do khí huyết ứ kết:
Với hiện tượng phía trước cổ sưng thô khá lớn do bệnh tích tụ lâu ngày nên tính chất hơi rắn, phát trướng hoặc ấn vào cảm thấy đau nhẹ, màu da không đổi, có thể có nhiều tia máu đỏ nổi lên, nuốt hơi vướng, ngực bức bối nhưng thở vẫn tốt, đau sườn, tính dễ cáu giận, chất lưỡi tối, mạch đi Trầm Sắc.
Bệnh thường kéo dài nhiều năm, xuất hiện các chứng huyết ứ ngưng kết làm cổ thô sưng to rõ rệt, ấn vào thấy cứng mà đau, lưỡi tía tối hoặc có nuốt ứ huyết, mạch đi Trầm Sắc.
- Do Tâm Can âm hư:
Với hình dạng phình trướng vùng cạnh cổ mà các y gia cổ đại là gọi là “Hiệp anh”, thường sưng to, một ít trường hợp thấy sưng nhỏ.
Các biểu hiện về Tâm can âm hư rất rõ, như hồi hộp, đánh trống ngực, mất ngủ, đoản hơi, tự ra mồ hôi, tính tình nóng nảy dễ cáu gắt, đầu váng, mắt hoa, hai mắt lộ (lộ nhãn) mà khô ít. Nếu nặng hơn thì ngũ tâm phiền nhiệt, vùng mắt nóng rát, mồ hôi trộm, lưng đau gối mỏi, các ngón tay run rẩy hoặc co quắp. Ở nam giới thì thêm cứng đi, mộng, hoạt tinh, còn nữ giới thì kinh nguyệt không điều, sụt cân, rụng tóc lưỡi đỏ, ít rêu, mạch đi Huyền Sác hay Tế Sác vô lực.
- Điều trị Dưỡng sinh:
– Tránh ăn uống các loại thực phẩm làm từ sữa bò trong thời gian ít nhất 3 tháng. Cũng tránh dùng các chất gây kích thích như trà, cà phê, nước ngọt đóng chai (soft drinks).
– Hãy cảnh giác phương pháp điều trị bướu cổ bằng chất phóng xạ (radiocation) sodium (iodine 131 hay 1 – 131) vì nó gây hằng loạt tác dụng phụ (side effects) rất nghiêm trọng.
– Tránh hấp tấp giải phẫu bướu cổ nếu chưa lâm vào tình trạng nguy cấp như gây khó thở hoặc khó nuốt, bởi vì nguy cơ tái phát và còn nguyên, chưa kể tới những rối loạn chuyển hoá và nội tiết xảy ra còn nhiều hơn nữa.
– Nên uống thêm Multivitamin và menral tổng hợp nhằm tăng cường chất sinh tố và chất khoáng, rất cân sự trao đổi và cân bằng về nội tiết tố. Cũng nên dùng thêm vitamin B complex, vitamin B1 (thiamine), B2 (riboflavin) và B6 (pyridoxine) rất cân cho chức năng tuyến giáp, sản xuất hồng câu, cân cho tế bào, hệ miễn dịch và các cơ quan liên hệ.
– Nên ăn đầy đủ các loại thực phẩm có nguồn gốc thực vật, như: Bông cải xanh (broccoli), bắp cải Brussels, sprout, cải nồi (cabbage), bắp cải hoa (cauliflower), rong biển (kale), quả đào (peaches), quả lê (pears), củ cải vàng, (rutabagas), đậu nành (soybeans), rau mồng tơi Mỹ (spinach) và củ cải trắng (turnips). Các loại thực phẩm này có tác dụng giúp khống chế việc sản xuất hormone tạo ra bướu giáp.
- Dược phẩm đơn giản:
– Củ cải to 1 củ, muối ăn 1 chút, giả nát như bùn. Mỗi lần dùng 1 nhóm, to nhỏ tuỳ theo diện tích của bướu, nắn thành cải bánh và đặt lên, ngoài dán thêm băng keo cho dính. Ngày thay đổi thuốc 1 lần, chỉ 2 – 3 ngày sau thấy gân thịt căng giật và chảy ra nước mủ là bướu xẹp, lành bệnh. Phương pháp này kinh trị bướu cổ không đau, không ngứa, không kể to nhỏ, không kể lâu ngày hay mới phát, đơn giản nhưng rất hay.
– Củ tỏi nhỏ, Ngô tù du (mua ở hiệu thuốc Bắc), trong lượng bằng nhau, giã nát đắp vào, dần dần bướu xẹp và tan mất. Phương này kinh trị bướu độ kết khối ở cổ.
– Hải đới (1 loại rong biển) 100g, sắc lấy nước uống bằng ngày, ăn luôn cả xác, chẳng bao lâu là lành bệnh.
– Hải tảo, côn bố (hai loài rong biển) khô, lượng bằng nhau, tán bột mịn, luyện với mật ong làm hoàn nặng 10g. Ngày nhai nuốt 10 – 20g sau bữa cơm chiều. Uống trường kỳ bệnh sẽ khỏi.
– Hải tảo 120g, Côn bổ 120g, Thanh bì 40g. Đem sào vàng, tán bột mịn, chế thành hoàn nặng 10g. Ngày uống 10g sau bữa tối. Uống dài ngày sẽ có kết quả.
– Uất kim 15g, Tử đan sâm 15g, Hải tảo 15g (mua ở hiệu thuốc Bắc). Sắc uống ngày 1 thang, có thể gia thêm chút đường hay mật ong, uống liên tục 1 – 2 tháng bệnh sẽ khỏi.
– Hải đới 60g, Đậu xanh 150g. Nấu chín, gia thêm chút đường, ăn hằng ngày.
– Hải tảo, côn bố, Đậu nành, lượng bằng nhau, nấu chín, thêm chút đường, ăn hằng ngày.
– Hạ khô thảo 30g, Hải tảo 60g. Sắc uống mỗi ngày.
– Hà thủ ô 20g, Côn bố 15g, Ô mai 10g. Sắc uống hằng ngày.
- Dược thảo tổng hợp:
- Bài 1:
Bạch thược 15g; Huyền sâm 10g; Hạ thủ ô 30g; Hải phù thạch 30g; Chế hương phụ 12g; Bạch giới tử 12g; Sinh mẫu lệ 20g; Bạch cương tằm 12g; Trạch tả 15g; Thất diệp nhất hoa 20g; Triết bối mẫu 12g (tán bột, hoà nước thuốc).
Sắc uống ngày 1 thang
- Bài 2:
– Biện chứng Đông y: Do can uất khí trệ, đàm khí kết tụ ở cổ.
– Pháp trị: Hoá đàm nhuyễn kiên, lý khí tán kết.
- Bài thuốc: “Tiểu ảnh hoàn”
Công thức:
Hải tảo 1000g; Hải phù thạch 1000g; Hải đới 500g; Tam lăng (chế giấm) 60g; Nga truật (chế giấm) 60g; Trần bì 15g; Thanh mộc hương 15g.
Cách làm và dùng: Đem thuốc tán thành bột mịn, luyện với mật ong làm tễ, nặng 12g/hoàn. Ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần/4 hoàn (6g).
Hiệu quả lâm sàng: Bài này đã trị 6 ca bướu cổ đơn thuần, 4 ca khỏi bệnh hoàn toàn, 2 ca tiến triển tốt. Trương Văn Đậu 41 tuổi, trong 3 năm vừa qua có bướu phồng lên ở cổ, to bằng nửa nắm tay. Một bệnh viện chẩn đoán bị bướu giáp đơn thuần.
Sờ bướu thấy mềm, ấn không đau, có nhiều nốt hạch. Tính tình bệnh nhân rất nóng, hay giận dữ, thường cảm giác tức ngực, đắng miệng, rêu lưỡi vàng bẩn, mạch đi Huyền Hoạt.
Sau khi cho dùng 1 liều thuốc tễ “Tiểu anh hoàn”, Bướu xẹp nhỏ lại khoảng 70 – 80%. Liều cho uống tiếp 4 liều nữa, công thức không đổi, bướu cổ hoàn toàn biến mất, các triệu chứng cũng không còn. Bệnh khỏi 100%.
Bài thuốc Đông y trị bướu giáp mang tính chất tham khảo độc giả không nên tự ý bốc thuốc uống khi cần phải gặp bác sĩ đông y để được thăm khám và kê toa. Quý khách có nhu cầu thăm khám và tư vấn miễn phí vui lòng liên hệ:
Thiện Minh Y Quán
ĐC: B14/12/9, Cây Cám, Tân Vĩnh Lộc, TPHCM
ĐT & Zalo: 0904 890 895 – Website: www.thienminhyquan.com