Định nghĩa: Bất cứ sự rối loạn nào thuộc chức năng của tim làm suy giảm mức cung cấp máu cho cơ tim (heart muscle) thì gọi là bệnh mạch vành (coronary heart disease) hay động mạch vành (coronary artery disease – CAD)
Tác nhân ảnh hưởng đến bệnh mạch bành là do mấy dưỡng khí (oxygen) và chất dưỡng khí (nutrients) tới mô cơ tim (myocardial tissue) vì lượng máu chảy vào mạch vành giảm bớt. Bệnh này gần như là bệnh dịch tại thế giới Phương Tây CAD thường xảy ra ở đàn ông nhiều hơn là phụ nữ, đa số thuộc sắc dân da trắng, trong lứa tuổi trung niên, từ 40 – 55 tuổi. Trước kia bệnh trở nên phổ biến trong giới phụ nữ vì có ảnh hưởng đến vấn đề rối loạn tiền mãn kinh (premnopausal) nhưng vấn đề này không kéo dài vì ngày nay phụ nữ nhờ dùng thuốc ngừa thai (contraceptives) nên đã giảm thiểu một cách đáng kể.
Nguyên nhân
Vữa xơ động mạch (atherosclerosis) là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn tới bệnh mạch vành. Ở thể này, những mảnh xơ chất béo (fatty, fibrous plaques) bám bên trong lòng ống (lumen) động mạch vành làm chúng hẹp lại khiến lưu lượng máu không thể chảy qua đầy đủ và dẫn tới chứng thiếu máu cục bộ cơ tim (myocardial ischemia). Sự hình thành mảnh xơ cũng đưa đến chứng huyết khối (thrombosis), chúng có thể kích động chứng nhồi máu cơ tim (myocardial infarction-MI cardiac infarct).
Vữa xơ động mạch thường phát triển thành huyết áp động mạch cao (high-pressure arteries) ở tim, não, thận và động mạch chủ (aorta), đặc biệt là tại những điểm phân nhánh (bifurcation points). Nó còn liên kết với nhiều nhân tố nguy hiểm khác như: Lịch sử gia đình, cao huyết áp (hypertension), tiểu đường (diabetesmellitus), mập phì (obesity), hút thuốc lá, căng thẳng thần kinh (stress), đời sống ngồi một chỗ (sedentary lifestyle), mức huyết thanh cholesterol (serum cholesterol) và triglyceride cao.
Những nguyên nhân khác cũng làm giảm lưu lượng máu chảy qua động mạch gồm có: phình mạch tách (dissecting-aneurysms), viêm mạch do nhiễm khuẩn (infectious vasculitis), bệnh giang mai (syphilis), và bị khuyết tật bẩm sinh (congenital defects) về hệ thống động mạch vành.
Dấu hiệu và triệu chứng
Dấu hiệu thông thường về CAD là đơn đau thắt ngực (angina), hệ quả trực tiếp do cung cấp không đủ dưỡng khí cho cơ tim. Cảm giác rõ nhất là nóng bỏng (burning), cảm thấy bị ép chặt, căng cứng ở phía dưới xương ức hay vùng ngực trước tim (precordial chest) và lan tỏa tới cằm, quai hàm và cánh tay trái.
Đặc biệt khi cơn đau xảy ra, bệnh nhân hay siết chặt nắm tay, ôm ngực hoặc chà xát từ ngữ tới cánh tay trái. Nó còn gây buồn nôn, ói mửa, mệt lả, vả mồ hôi và lạnh các đầu ngón tay và ngón chân.
Phần lớn cơn đau thắt ngực thường theo sau những cử động gắng sức nhưng cũng có thể xuất phát từ sự kích động tâm thần, nhiễm lạnh hoặc do bội thực.
Cơn đau thắt ngực có 3 hình thái chính.
+ Cơn đau thắt ngực ổn định (stable angina) là cơn đau có thể dự đoán trước về tần số (frequency), thời gian hạn định (duration) và có thể giảm nhẹ khi dùng thuốc hoặc nghỉ ngơi.
+ Cơn đau thắt ngực không ổn định (unstable angina) là cơn đau làm gia tăng về tần số và thời hạn định. Kiểu đau này tạo rất nhiều nguy cơ rủi ro cho người bệnh.
+ Cơn đau thắt ngực Prinzmetal (prinmetaVs angina) còn gọi là đau ngực co cứng, một dạng hiếm có, thường xẩy ra lúc nghỉ ngơi hơn là lúc hoạt động. Nó chẹn cứng hoặc co thắt động mạch vành mà không dự báo trước.
Chẩn đoán
Lịch sử của bệnh nhân gồm có: Tần số và thời gian gây từng cơn đau thắt ngực, tình trạng hiện đại. Đây là những nhân tố chủ yếu để lượng định bệnh mạch vành (CAD). Theo y học hiện đại, có 4 phương pháp chẩn đoán chính.
Pháp tâm điện ký (Electrocardiography-ECG): Nếu được thực hiện giữa lúc xảy ra cơn đau thắt ngực thì thấy ngay tình trạng thiếu máu cục bộ (ischemia) hay là loạn nhịp (arrhythmias) như ngoại tâm thu thất (premature ventricular contraction). Pháp tâm điện ký (ECG) có khuynh hướng bình thường nếu người bệnh hết đau.
Pháp đạp xe (Treadmill bicycle exercise test). Dùng để kích thích cơn đau ngực và trên tâm điện ký (ECG) xuất hiện thiếu máu cơ tim cục bộ (myocardial ischemia), tức là đoạn ST lõm (ST-segment depression).
Pháp chụp X-Ray mạch vành (Coronary angioraphy): nhằm khám phá động mạch vành hẹp hoặc bị vít lấp với sự tuần hoàn bảng hệ, còn gọi là tuần hoàn nhánh bên (colateral circulation).
Pháp ảnh dịch truyền (Myocardial perfusion imaging): Dùng chất thalium-201 hoặc cardilite truyền vào mạch máu giữa lúc cho bệnh nhân đạp xe đạp (treadmill) để nhìn thấy qua màn ảnh những nơi cơ tim bị thiếu máu cục bộ.
Điều trị bằng dược thảo
Dược thảo đơn giản
Hawthorn (crataegus oxycantha): Còn có nhiều tên khác như: English Hawthorm, May bush, May trê, Quikset, Thorm- apple tree, Whiteborn.
Hawthorn có hơn 300 loài khác nhau, xuất xứ từ Anh Quốc rồi lan qua Châu Âu, Bắc Mỹ và Á Châu. Ở Châu Âu thường dùng 2 loài crataegus oxycantha hoặc crataegus sanguinea. Tại Việt Nam thầy thuốc Đông y gọi Hawthorn dưới tên Bắc Sơn tra nhưng phải nhập từ Trung Quốc qua các loài: Crataegus pinnatifida, crataegus cuneata, scabrifolia, cratagus hupehensis, crataegus wattiana. Hiện nay, cả Trung Quốc và Việt Nam có bán một loại dược liệu mang tên Sơn Tra nhưng không thuộc chi Cratagus, cần tránh nhầm lẫn.
Mô tả: Hawothorn (crataegus oxycantha) là loài cây nhỡ, mọc thành bụi. Ở Anh, người ta trồng hawthorn làm hàng rào quanh nhà giống như trồng dâm bụt ở Việt Nam, thân gỗ cứng, vỏ màu xám, cành nhánh có nhiều gai, lá nhỏ và sáng bóng, đàu lá có màu xanh đậm, mặt dưới lá xanh, có 3 thùy không đều, mép hình răng cưa. Hoa có 5 cánh, tròn, thường nở vào cuối tháng năm (may) sang tháng sáu (June). Quả mọng như quả táo, ở ngoài có màu đỏ tươi, bên trong màu vàng nhạt có chứa 2-3 hạt nhỏ.
Bộ phận dùng làm thuốc: Hoa, lá và quả đều được dùng làm thuốc nhưng chủ yếu là quả chín mọng.
Công dụng: Chống co thắt (atispasmodic), trợ tim (cardiac), giảm đau (sedative), giãn mạch máu (vasodilator). Một số kinh nghiệm khác xác định hawthorn có khả năng điều hòa huyết áp, làm giảm áp suất máu, giúp tim đập chậm lại. Nó giúp cho cơ tim yếu bởi tuổi già được khỏe hơn, bệnh viêm cơ tim (myocarditis), bệnh xơ cứng động mạch (arteriosclerosis) và thần kinh tim bị tổn thương. Cách dùng: Thường được dùng ở dạng trà. Pha một muỗng canh bột hoa hawthorn với nửa ly nước sôi, ngày dùng 1 đến 1 muỗng rưỡi. Có thể thêm đường hay mật ong tùy thích.
Khella (ammi visnaga): Một dược thảo cổ truyền của Ai Cập (Egypt) và các quốc gia cùng Địa Trung Hải, Trung Cận Đông. Nó còn nhiều tên khác như: Ammi, Bishop’s, weed, khellin, visnaga và visnagin, Khella thuộc họ carrot.
Bộ phận dùng làm thuốc: Quả và hạt
Theo Y học cổ truyền, Khella được dùng trị bệnh đau tim, đúng hơn là trị bệnh đau thắt động mạch vành nhờ hoạt chất Khellin tác dụng lên cơ tim. Khella được các nhà khoa học nghiên cứu từ năm 1940, thấy chất khellin có khả năng làm giảm lâu dài những triệu chứng đau thắt ngực, tác dụng giống như thuốc chẹn calcium (Calcium- channel- blocking drugs) của Tây, giúp giãn nở mạch máu nhờ khóa ngõ vào của calcium tràn vào tế bào mạch máu sẽ dẫn tới sự co thắt và khi chẹn kín được thì ống mạch máu sẽ nở to, mạch vành được cung cấp máu đầy đủ.
Cách dùng: Với khella chiết xuất ở tỷ lệ 20%, mỗi ngày dùng từ 250-300mg. Nếu khellin nguyên chất (pure), chỉ nên dùng liều 20-30mg/ngày. Khi dùng liều cao từ 120-150mg/ngày, có thể bị tác dụng phụ với các triệu chứng: Biếng ăn, buồn nôn, chóng mặt. Nếu khella được tổng hợp với Hawthorn chiết xuất thì tác dụng cao hơn nhiều.
CoenzymeQ10 (CoQ10): Còn gọi là Ubiquinone, một chất dinh dưỡng, có mặt hầu hết tế bào vật thể sống bằng oxygen, bao gồm cây cỏ, con người và loài vật. Trong cơ thể, CoenzymeQ10 hiện diện cao nhất ở tim và gan. Ngoài thiên nhiên, CoenzymeQ10 được tìm thấy trong rau mồng tơi Mỹ (spinach), bông cải xanh (broccoli), một số loài vật như dầu đậu tương (soybean oils), dầu hạt nho (grapessed oils), hạt vừng (sesame seeds), hạt hồ đào (walnuts), thịt và cá, đặc biệt trong cá sardines.
CoenzymeQ10 đóng vai trò chính cung cấp năng lực, bổ trợ cho các vận động viên sử dụng nhiều sức nhờ khả năng chống oxy hóa (antioxidant) rất mạnh, giúp trao đổi phản ứng trong mô. Theo kết quả nhiều cuộc nghiên cứu. CoenzymeQ10 có khả năng trị liệu cơn đau thắt ngực (angina pectoris), cao huyết áp (hypertension), suy tim sưng huyết (congestive heart failure). Sử dụng rất an toàn.
Thiếu CoenzymeQ10 dễ dẫn đến tình trạng đau tim mạch. Trong các cuộc thử nghiệm sinh thiết (biopsies) mô tim ở một số bệnh nhân mắc bệnh về tim mạch, thấy rầng từ 50-75% trường hợp thiếu CoQ10 trầm trọng. Một cuộc nghiên cứu khác với 12 bệnh nhân bị chứng đau thắt ngực, cho điều trị bằng CoQ10 với liều 150mg/ngày trong 4 tuần lễ, ghi nhận cơ đau giảm đến 53% so với các bệnh nhân dùng thuốc trấn an (placebo). Khi CoQ10 được kết hợp với Vitamin E, selenium, và beta carotene, có tác dụng làm giảm nguy cơ hư hoại tế bào gan, thận và mô tim bởi gốc tự do (free radical).
Một lợi ích khác nữa đối với bệnh ung thư vú (breast cancers), qua khảo sát 32 bệnh nhân vị ung thư vú cho dùng CoQ10 với liều 90mg/ngày trong 2 năm, được biết tất cả đều sống sót, trong đó 6 người thuyên giảm rõ rệt nhờ CoQ10 làm gia tăng tác động của đại thực bào (macrophage). Các nhà nghiên cứu thử cho 1 người dùng CoQ10 tăng đến 390mg/ngày trong vòng 3 tháng, thấy khối u (tumor) hoàn toàn biến mất. Khi cho một bệnh nhân dùng CoQ10 với liều 300mg/ngày trong 3 tháng, không thấy bướu phát triển thêm hoặc di căn (metastasis).
Dược thảo tổng gợp
Theo Đông y học, cơn đau thắt ngực thuộc phạm trù hung tý và quyết tâm thống.
Nguyên nhân
Do khí trệ, huyết ứ, khí huyết lưỡng hư.
Pháp trị gồm hành khí hoạt huyết, thông dương hóa trọc.
Sau đây là các bài thuốc hiệu nghiệm.
Bài 1:
Qua lâu nhân 12g; Đào nhân 16g; Phỉ bạch (củ hẹ) 08g; Trần bì 08g; Xuyên khung 12g; Kiết cánh 08g; Sinh địa 12g; Bắc sài hồ 12g; Đương quy 12g; Xích thược 12g; Hồng hoa 12g; Chỉ xác 08g; Cam thảo 06g.
Sắc uống ngày 1 thang. Nước nhất, đổ 3 chén sắc còn 8/10 chén, chia uống 2 lần. Nước nhì, đổ 2 chén nước, sắc còn nửa chén, uống 1 lần.
Bài 2:
Sinh bồ hoàng 15g; Ngũ linh chi 15g; Diên hồ sách 15g; Sinh sơn tra 25g; Đan sâm 25g; Qua lâu bì 15g; Cát căn 15g; Chỉ xác 15g; Uất kim 30g; Bạch chỉ 15g; Ngưu tất 15g; Thất ly tán 01 túi (gói riêng chia làm 2 lần uống với nước thuốc).
Sắc uống ngày 1 thang.
Kinh nghiệm lâm sàng: Một phụ nữ 49 tuổi, sáng thức dậy bỗng thấy đau nhói vùng trước tim, đau lan ra khắp vùng sau vai trái, chân tay lạnh toát, mặt xanh tái, tiền sử có bệnh mạch vành 3 năm. Sau khi uống 4 thang, triệu chứng đau thắt ngực giảm hẳn, chân tay ấm, sắc mặt hồng nhuận. Cho uống thêm 3 thang nữa, đau nhói ngực hết hẳn, mạch đập 110 lần/phút. Xét nghiệm máu và kiểm tra điện tâm đồ bình thường. Cho uống tiếp 4 thang nữa, giảm lượng Diên hồ sách, cát căn, bạch chỉ; Gia thêm bán hạ 15g, thần khúc 15g, Đảng sâm 15g. Kiểm tra lại tim mạch vẫn tốt. Theo dõi 6 tháng, chưa thấy tái phát.
Bài 3:
Hồng sâm 50g; Đan sâm 100g; Giáng hương 100g; Trầm hương 50g; Xuyên điền thất 50g; Huyết kiệt hoa 50g; Hổ phách 50g; Chu sa 30g (gói riêng).
Cách làm: Đem thuốc tán thành bột mịn, ngào với mật ong viên thành hoàn 06g, ngoài lấy chu sa làm áo. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 hoàn với nước chín.
Kinh nghiệm lâm sàng: Nguyễn Thanh Tú 54 tuổi, vốn có bệnh cao huyết áp, cảm thấy ngực trái đau thắt, lan sang cả vai trái, mạch đi Trầm Huyền mà kết. Xem điện tâm đồ thấy nhịp sớm tâm thất, nhánh chuyển máu trái bế tắc, thiếu máu. Thử máu, mức cholesterol cao 300mg%, triglycerid 160mg%, chẩn đoán là xơ động mạch vành thể nhũn, nhịp thất sớm. Cho dùng bài số 3, hết 1 liều, bệnh yên tĩnh. Cho uống tiếp liều thứ 2, bệnh không còn vãng lai. Nữa năm sau kiểm tra lại điện tâm đồ, thấy mọi việc ổn định.
Bài 4:
Bạch phục linh 15g; Chế bán hạ 10g; Trần bì 10g; Trúc nhự 10g; Chỉ thực 12g; Qua lâu bì 30g; Giáng hương 10g; Đan sâm 15g; Xuyên khung 15g; Hồng hoa 10g; Quế chi 10g; Sao bạch truật 15g; Giới bạch (Củ kiệu) 10g.
Sắc uống ngày 1 thang
Kinh nghiệm lâm sàng: Trần Nghị 60 tuổi, gần 1 tháng qua, cứ làm việc nặng nhọc thì thấy đau nhói vùng ngực trái kiểu đè nặng, mỗi lần kéo dài hơn 10 phút vừa ho vừa vã mồ hôi lạnh. Kiểm tra điện tâm đồ thấy nhịp tim thể hàn, động mạch vành không cung cấp đủ máu cấp tính. Đông y chẩn đoán mạch Huyền Hoạt, viêm phế quản mãn tính, hung dương bế tác, đờm trọc ngưng tụ. Cho uống bài số 3 được 3 thang, hết đau ngực. Cho dùng nguyên phương thêm 3 thang, căn bản yên tĩnh. Tiếp tục gia giảm để củng cố tim mạch sau 3 tháng chưa thấy tái phát.
Phương pháp phòng bệnh
Một vài nguyên nhân chính gây ra bệnh đau thắt ngực là do ăn uống không đúng cách. Dưới đây là vài lời khuyên hữu ích.
Nên ăn nhiều rau quả nhiều nhất magnesium và potassium: rau xanh, rong biển (seaweed), trái cây chín, trà xanh, rượu nho, gạo lức, đậu tương, ngũ cốc, tỏi, củ hành tây.
Giảm tối đa lượng mỡ bảo hòa (saturated fat) trong bữa ăn hàng ngày, đặc biệt là mỡ động vật và dầu ăn đã khử hydro còn gọi là hydrogenated oils.
Tránh ăn thịt đỏ (Red meats) như thịt bò và đồ uống có cafein, đường tinh chế, chất béo, muỗi, thịt cá muối, thực phẩm chiên xào, nước ngọt các loại.
Tuân thủ chế độ ăn uống hằng ngày thích hợp: chỉ dung nạp 70% nhiệt lượng (calories) chất đường bột (carbohydrates) từ nguồn rau quả tươi và hạt ngũ cốc và 20% nhiệt lượng từ nguồn chất đạm (protein) ít mỡ.
Ăn ít hơn 100mg cholesterol/ngày. Cố giữ mức cholesterol dưới 160mg.
Nên uống nhiều nước ít nhất 6 ly lớn/ngày. Phương pháp này rất có ích cho việc lọc máu, làm khỏe tim.
Rượu nho cũng giúp trợ tim. Dùng 1 hoặc 2 cốc rượu nho vào bữa cơm chiều sẽ giúp giảm sự căng thẳng thần kinh và gia tăng lượng cholesterol tốt (HDL) lên.
Chấm dứt việc hút thuốc lá, bởi vì chất nicotin trong thuốc lá làm co thắt động mạch chủ và là nguyên nhân dẫn tới chứng huyết áp tăng cao đột ngột. Nhiều nhà nghiên cứu Hoa Kỳ tiên lượng, nếu số người đau tim mà bỏ thuốc lá, tử suất mỗi năm sẽ giảm hơn 1500 người.
Siêng năng tập thể dục, tập thở sâu hằng ngày, giúp cho cơ thể thu nạp đầy đủ dưỡng khí (oxygen), một loại thuốc cực quý cho bệnh tim mạch mà không mất tiền.
Phương pháp chữa trị cấp thời
Ngay khi lên cơ đau thắt ngực, hãy bình tĩnh dùng đầu ngón tay trỏ bấm mạnh vào 1 trong 2 điểm.
+ Thứ nhất: dưới lòng bàn chân phải, điểm nằm giữa hai xương ngón chân cái và ngón kế, cách đầu khe chân độ 3cm (ngang chổ lồi cao nhất)
+ Thứ hai: trong lòng bàn chân phải, vị trí đầu trong khớp xương thứ 3 của ngón giữa, các khe ngón tay độ 3 cm. Bấm 2 điểm này ngăn chặn được chứng đột quỵ (heart attack)
Nhúng một chiếc khăn trong nước nóng, vắt ráo nước, chườm lên vùng ngực trái và xoa nhẹ nhiều lượt, có tác dụng làm dịu cơn đau tim.
Nhai ngày 1 viên aspirin khi cảm thấy đau thắt ngực. Nó có khả năng giảm cơn đau đồng thời còn giảm nguy cơ bị nghẽn động mạch vành máu loãng ra và lưu thông dễ dàng hơn.
Dùng phương pháp tắm nước nóng rồi dội nước lạnh, thay nhau nhiều lần giữa nóng và lạnh trong thời gian cực ngắn. Cách này làm gia tăng sự lưu thông của máu cũng có khả năng giảm cơn đau tim.
Bài thuốc đông y trị bệnh mạch vành mang tính chất tham khảo độc giả không nên tự ý bốc thuốc uống khi cần phải gặp bác sĩ đông y để được thăm khám và kê toa. Quý khách có nhu cầu thăm khám và tư vấn miễn phí vui lòng liên hệ:
Thiện Minh Y Quán
ĐC: B14/12/9, Ấp 14, Tân Vĩnh Lộc, TPHCM
ĐT: 0904 890 895 – Website: www.thienminhyquan.com