Facebook 08h00 - 20h00 hằng ngày
Zalo 08h00 - 20h00 hằng ngày
Gọi ngay
0904 890 895 08h00 - 20h00 hằng ngày
Home

Đông y trị bệnh hen suyễn

Đông y trị bệnh hen suyễn

Asthma, từ nguyên là “thở khó – difficult breathing”. Ngày nay, asthma có người dịch nghĩa là suyễn (Từ điển Y Học Anh Việt của bác sĩ Phạm Ngọc Trí), có người dịch là Hen (Từ Điển Y Học Anh Việt của Bác sĩ Bùi Khánh Thuần), còn sách Medical Dictionnary của nhà xuất bản Webster’s Newworld Hoa Kỳ thì dẫn giải asthma là biểu thị “Bệnh thuộc phế quản (bronchial)” trong khi sách “Bách Khoa Thư Viện Học” (quyển 1) của Trung Tâm Quốc Gia Biên Soạn từ Điển Bách Khoa Việt Nam ấn bản năm 1991 thì lại đặc tên là “Hen Phế Quản”. Như vậy, Asthma, Hen, Suyễn, Hen Suyễn hay Hen Phế Quản đều có cùng một nghĩa, biểu thị bệnh thuộc Phế quản.

Theo Cơ Quan Y Tế Thế Giới (OMS) hướng dẫn, hen suyễn là sự tổn thương đặc trưng bởi những cơn khó thở kịch phát do nhiều yếu tố tác động với các yếu tố lâm sàng là tắc nghẽn toàn bộ hay một phần phế quản nhưng cũng có thể phục hồi được giữa những cơn co thắt. Tình trạng tắc nghẽn là do gia tăng đột ngột sự cản trở đường hô hấp với những cường độ kích thích khác nhau, biểu thị bằng sự kéo dài thời kỳ thở ra. Tóm tắt, hen suyễn chỉ hiện tượng thở đứt hơi, thở mạnh, thở khó, ngộp thở.

  1. Triệu chứng

Trước khi tấn công, cơn hen suyễn thường báo hiệu bằng một vài triệu chứng xấu và được phân thành 4 kiểu hen suyễn tùy theo tần suất, mức độ phát động mà đặt tên:

  1. Tần suất phát động:

– Loại 1: Rất lâu, thường trên 1 tháng mới phát động một cơn hen suyễn.

– Loại 2: Mỗi tuần phát động một cơn, thường có 4 cơn trong một tháng.

– Loại 3: Phát động nhiều cơn trong một tuần nhưng cách nhật, không đều.

– Loại 4: Lên cơn hen suyễn hằng ngày với bệnh cảnh khó thở liên tục.

  1. Triệu chứng:

– Ngứa mũi, hắt hơi, chảy nước mắt và nước mũi.

– Ho từng cơn, bồn chồn hoảng sợ, đầy bụng, mệt.

– Khó thở, phải thở gấp, thở ra khó hơn hút vào.

– Trong cơn hen suyễn lồng ngực căng cứng, vẻ mặt và cơ thể tím tái.

– Hơi thở có tiếng đàm rít “khò khè” kéo dài, đứng xa vẫn nghe rõ.

– Sau vài phút hoạt vài giờ cơn hen suyễn sẽ hạ cường độ co thắt, bệnh nhân thở nhẹ hơn.

– Đàm lúc này đặc quánh, khó khạc, trong đàm có những hạt trong như hạt trai.

– Người bệnh mệt lả, yếu sức, chỉ muốn nằm.

  1. Nguyên nhân

Theo Y học Hiện Đại:

Có rất nhiều nguyên nhân gây ra hen suyễn, nhưng dựa trên thực tế, các nhà y học thường chia thành 2 nhóm chính:

– Hen suyễn do môi trường bên ngoài tác động gọi là Hen suyễn dị ứng.

– Hen suyễn do suy yếu bên trong cơ thể còn gọi là Hen suyễn nội tạng.

  1. Hen suyễn dị ứng:

Đặc điểm của hen suyễn dị ứng gồm 2 phần: Phần vật chất tạo dị ứng (dị nguyên) và phần mẫn cảm (dị ứng) của bệnh nhân khi tiếp xúc.

– Dị nguyên trong nhà gồm có: Bụi nhà, bụi trong chăn gối, lông thú nuôi trong nhà. Nếu mẫn cảm với các dị nguyên này, bệnh nhân thường lên cơn hen suyễn quanh năm, hay xảy ra vào ban đêm hay khi quét dọn nhà cửa.

Dấu hiệu đầu tiên của bệnh lí là hắt hơi, chảy nước mũi, ngạt mũi; nhưng nếu ra khỏi nhà thì bệnh lí sẽ giảm hay biến mất. Riêng mẫn cảm do một số sinh vật nhỏ gồm các loại bọ nhà, cơn hen suyễn cũng sẽ giảm hoặc ngưng hẳn khi sống ở độ cao từ 1,200 mét đến 1,500 mét so với mặt biển.

– Dị nguyên trong không khí gồm có: Các loại phấn hoa, bông cỏ và nấm mốc. Hen suyễn do phấn ho thường diễn ra theo mùa, nặng nhất vào thời điểm có “mưa phấn hoa”, biểu hiện bệnh lí thường kết hợp giữa hen phế quản với viêm mũi co thắt, viêm kết mạc mắt.

– Dị ứng do nghề nghiệp thường xảy ra khi tiếp cận với việc làm như: Công nhân trong nhà máy dệt, lau chùi ống khói nhà máy, phụ quét rác, sữa chữa đường xá, thợ làm bánh. Nếu thay đổi công việc thì hen suyễn sẽ giảm hoặc ngưng hẳn.

– Dị nguyên do ăn uống bao gồm một số hải sản như tôm, cua, một vải loại rau quả như cà chua, rau xanh, một vài thực phẩm thông dụng như trứng, chocolat, phẩm nhuộm thực phẩm và một số loại thuốc uống trong đó có aspirine. Các nhà y học ghi nhận, từ 2 – 4% bệnh nhân bị hen suyễn do dùng aspirine. Biểu hiện lâm sàng thường thấy: Tắc mũi mãn tính do co thắt vận mạch dẫn tới nguy cơ tạo Polip mũi, viêm xoang kèm theo hiện tượng dày cứng các niêm mạc tạo thành thể “viêm đa xoang phì đại”, ngoài ra còn có thể kết hợp cả mề đay, phù mạch, phù vùng cuống lưỡi gây ngạt thở rất nguy hiểm dễ gây chết người.

Biểu hiện lâm sàng bệnh hen suyễn do dị nguyên gồm có:

– Thời gian lên cơn tùy thuộc vào 2 yếu tố: Thời gian tiếp xúc và đề kháng của cơ thể (sức khỏe).

– Phần đông bệnh nhân có tiền sử mắc thêm một vài chứng bệnh khác nhau: bệnh chàm, mề đay, phù, viêm mũi co thắt hoặc trong gia đình có người bị hen suyễn.

  1. Hen suyễn nội tạng:

Đây là dạng hen suyễn phát xuất từ nội thân nhưng không loại từ nguyên nhân tiếp xúc với bên ngoài làm tăng hoạt tính của phế quản không đặc hiệu. Một số người khỏe mạnh trên 50 tuổi khi hít phải khói thuốc lá, khói bụi do xe cộ thải ra, uống rượu, ngửi mùi gia vị cay nồng liền vị kích thích và lên cơn hen suyễn dưới dạng “viêm phế quản co thắt”. Điều đáng chú ý là trên lâm sàng “Viêm phế quản co thắt” và “hen phế quản dị ứng” thực tế rất khó phân biệt vì 2 loại này thường xen lẫn vào nhau.

– Hen suyễn và viêm mạch máu: Hen suyễn có thể là dấu hiệu tiên báo một trong nhiều chứng của viêm động mạch hoại tử.

– Hen suyễn do gắng sức: Đây là trường hợp vận dụng quá tải về thể lực, thở mạnh, gây phản xạ thần kinh phế vị, làm giảm lượng CO2 trong máu hoặc do ảnh hưởng vởi không khí lạnh gây khó thở dẫn tới kích thích cơn hen suyễn khởi động. Chỉ vài tiếng đồng hồ sau ngưỡng kích thích cơn hen suyễn sẽ giảm hoặc hết.

– Hen suyễn và nội tiết tố: Trường hợp này có liên hệ đến vai trò của hormone. Một số bệnh nhân vị hen suyễn từ bé nhưng có thể giảm hoặc hết khi lớn lên ở tuổi dậy thì hoặc tuổi trưởng thành, nhất là nam giới. Riêng nữ giới, cơn hen suyễn phức tạp hơn, có người giảm hay hết vào thời kì mang thai trong khi những người khác lại nặng thêm hoặc mỗi lần hành kinh hay mang thai có cường độ hen suyễn khác nhau, thậm chí tới tuổi mãn kinh mới thấy cơn hen suyễn mắc phải tử 20 – 30 về trước tưởng đã khỏi nay lại tái phát.

– Hen suyễn và yếu tố tâm lí: Mọi sự biến động về tâm lí gián tiếp gây ảnh hưởng, làm tăng hoặc giảm cơn hen suyễn. Một người bị chấn thương về tình cảm, âu lo cho cuộc sống, phiền não về bệnh tật, buồn rầu chuyện gia đình thì thường thấy bệnh nhẹ biến thành nặng. Trái lại, thái độ lạc quan, sinh khí chung quanh tràn đầy hạnh phúc thì bệnh nặng hóa nhẹ hoặc biến mất

  1. Biện chứng:

Trong tiến trình lên cơn hen suyễn có rất nhiều biến chứng khác nhau:

  1. Các biến chứng trực tiếp:

– Suy hô hấp cấp tính bởi những con hen suyễn ác tính. Đây là trường hợp rất nguy hiểm, đe dọa tính mạng, cần được chuyển đến bệnh viện cấp cứu ngay.

– Tràn khí màng phổi do một số phế nang bị vỡ vì căng đầy không khí làm cho khó thoát khỏi mang phổi với dấu hiệu đột nhiên bệnh nhân đau ngực dữ dội, tình thế cũng thật nguy kịch.

– Nhiễm khuẩn phế quản làm tắt nghẽn phế quản, thường gặp ở những người mắc bệnh hen suyễn nặng. Nếu nhiễm khuẩn dai dẳng, có thể có những ổ mũ bên trong tai, mũi, họng.

– Tổn thương như mô phổi do vi khuẩn, virus hoặc do thâm nhiễm tạm thời.

  1. Các biến chứng lâu dài:

– Sau nhiều năm bị hen suyễn, lồng ngực thường bị biến dạng, căng tròn, xương ức nhô ra phía hoặc lồng ngực đẩy rộng tới phía trước.

– Do lạm dụng thuốc điều trị hen suyễn, như dùng bừa bãi loại corticoid dẫn tới tình trạng lên cân, đỏ mặt và cổ mọc lông trên mặt, tăng huyết áp mà thuật ngữ y khoa gọi là “hội chứng Cushing – Cushing’s syndrome” hoặc bị loãng xương, mắc bệnh tâm thần… Nếu dùng quá nhiều thuốc kích tố adrenaline có thể bị chết đột ngột hoặc hội chứng phổi bị ức chế.

– Suy hô hấp mãn tính dẫn tới suy tim do bệnh phổi. Khi một phế quản bị tắt nghẽn nặng, mặt bệnh nhân luôn luôn bị tím tái, khó thở, tiếp sau đó là suy tim với các dấu hiệu phù, tiểu ít, gan to, … bệnh nhân dễ bị tàn phế. Biến chứng này thường gặp ở những bệnh nhân lớn tuổi, hen suyễn lâu năm và không được điều trị chu đáo.

Việc điều trị lúc này ít có hiệu quả.

Theo Đông y học:

Đông y học gọi hen suyễn là “Háo suyễn”. Theo sách “Chư bệnh Nguyên Hậu Luận” của danh y Sào Nguyên Phương (thế kỷ thứ VII sau công nguyên) nói: “Phế chủ vu khí, tà thừa vu phế tắc phế trướng, phế trướng tắc phế quản bất lợi, bất lợi tắc khí đạo sáp, cố khí thượng suyễn nghịch, minh thức bất thông. Kì hung cách đàm ẩm đa dã, thấu tắc khi động vu đàm, thượng bác yếu hầu chí gan, đàm khí tương kích, hô áp hãn thanh”. Phỏng dịch “phổi chủ lưu thông khí, ngoại tà mạnh làm hại phổi khiến phổi giãn rộng gây uất tắc ống thở, xốc lên trên gây suyễn, hơi thở không thông. Hông ngực chứa đầy đàm dãi, đàm với khí kết hợp nhau tràn lên cổ họng nên phát ra tiếng kêu”.

Háo suyễn được Đông Y phân thành 2 dạng nhằm giúp xác định bệnh lí:

– Hen chỉ về tiếng khò khè (theo y học Chính Tuyền) phát ra trong cổ họng. Sách “Hải Thượng Y Tông Tâm Tâm Lĩnh” của Hải Thượng Lãn Ông, thiên “ấu ấu tu trí” viết: “Hen là trong cổ họng có tiếng kêu như kéo cưa, như tiếng kêu của ếch ương” hoặc “hen là theo tiếng thở mà gọi tên”. Hen còn chia ra hen hàn và nhen nhiệt. Hen hàn là trong phổi có hàn đàm ngưng tụ, hen nhiệt là trong ngực khô táo gây uất tắc đường thở.

Hen, về nguyên nhân, theo sách “Y Học Thực Trị” của danh y Trần Tu Viên (1752 -1823, đời Nhà Thanh, Trung Hoa) viết: “Hen là do hàn tà nằm phục ở phế, đàm kết ở màng phổi, khí gặp lục khí (Phong, Hàn, Thử, Thấp, Táo, Hỏa) hay thất tình (Hỉ, Nộ, Ưu, Tư, Bí, Kinh, Khủng) hoặc lao quyện ẩm thực bất điều (ăn uống không tiết độ, làm việc quá sức) gây xáo trộn tới khí. Phế chủ khí lại không quân bình được khí nên phát ra cơn hen”.

– Suyễn chỉ về hơi thở to, là tình trạng bức bách của khí, vì khí ở phế không thông suốt nên thở ra hít vào ngắn và gấp, phải há miệng rụt vai để thở, tựa như rên mà không đau, hít vào như gấp mà không có hoặc có rất ít đàm. Bởi thế suyễn khác với hen. Có hen tất có suyễn nhưng suyễn thì không có hen (vì biểu tượng của hen là đàm). Suyễn cũng chia ra suyễn thực và suyễn hư (sách Kim Quỹ Yếu Lược). Luận về suyễn thực suyễn hư, lương y Trung Hoa TRƯƠNG CẢNH NHẠC nói: “Người thực suyễn là khí bị hỏa uất mà tạo đàm ở phổi, đó là lẽ thực. Còn hư suyễn là hỏa tốc lên từ thận, phải bổ thận để nạp chân khí thì suyễn tự bình”. Cùng một nhận định y tổ Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông cũng nói: “Thận là gốc của tạng phủ, căn bản của 12 kinh mạch, chủ chốt của sự hô hấp, nguồn cội của tam tiêu. Nếu thận suy thì không thu nạp được khí, làm ra chứng hư trướng, hư suyễn, nôn tức, khí nghịch, chỉ nên bổ mà không tả, xét mạch mà thu liễm là đúng”.   

  1. Phân biệt:

Về mặt lâm sàng, Đông Y phân biệt hen và suyễn qua một số biện chứng sau đây:

  1. Hen:

Chủ chứng là thở khò khè, thở khó, đàm kéo cưa không nằm ngửa được.

  1. Hen hàn:

– Thường do đàm tích, dương khí của phế vị yếu lại cảm phải tà khí lục dâm mà phát ra.

– Ngực đầy tức, đàm dãi trong loãng, rêu lưỡi trắng trơn, mạch đi trầm khẩn. Nếu do ngoại cảm mà lên cơn hen thì có chứng nóng ngoài da, hàn nhiệt vằn lại, đau mình.

  1. Hen nhiệt:

– Cơ thể vốn nhiều đàm, nhiệt phế khí uất trệ, đàm làm tắt nghẽn đường lưu thông của khí.

– Bứt rứt khó chịu, rêu lưỡi thường vàng đục, mạch đi hoạt sác. Nếu do âm hỏa vượng thì chất lưỡi đỏ sẫm, mạch đi tế sác hoạt. Nếu kiêm ngoại cảm thì người lạnh mà đau, phát sốt, khát nước, lạnh ở ngoài mà nóng hầm bên trong.

  1. Suyễn:

Chủ chứng là thở gấp, thở to, không có tiếng đàm rít khò khè như hen.

  1. Suyễn thực:

– Sách Linh Khu nói: “Bệnh tà ở phế sẽ phát sinh đau nhứt, ngoài da, sợ lạnh phát sốt, khí nghịch lên suyễn thở, vã mồ hôi, ho, đau ra đến vai lưng.

– Phổi như cái tàng dù che phủ các tạng khác, bên ngoài ứng với da lông, có chức năng làm cho cơ thể mát dịu. Khi bị tà khí quấy nhiễu thì phế khí đầy trướng lên mà phát suyễn. Lại có khi bị đàm đặc vít lấp khiến phế khí không thông sướng được, hô hấp khó khăn mà phát suyễn.

– Suyễn thực chủ yếu do đàm hay khi gặp phong hàn, khí táo nhiệt trái màu kích động mà phát suyễn. Nếu do phong hàn thì có các triệu chứng ngực đầy, ho suyễn, nặng hơn thì vã mồ hôi, nhức đầu, sợ lạnh, đàm nhiều mà loãng hoặc có kèm theo sốt, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch đi Phù Hoạt. Nếu do táo nhiệt thì hay bứt rứt, khát nước, họng đau, đàm nhiều mà đặc khó khạc ra, táo bón, nước tiểu đỏ gắt hoặc kèm theo ho tức ngực, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi mỏng, mạch đi sác.

  1. Suyễn hư:

– Phế chủ khí, thận nạp khí, ngọn phát ra ở phổi mà gốc ở thận vì thận chủ nạp khí (tương tự như một bình ắc quy tích điện). Phế khí hư thì phổi mất khả năng vận chuyển khí, thận khí hư thì mất năng lực thu nạp khí.

Cho nên suyễn hư chủ yếu do phế thận khí đều hư, không phải do tà khí lúc dâm quấy nhiễu.

– Suyễn hư, chủ yếu do hự, không có sức, hễ làm nặng một chút là lên cơn suyễn. Nếu do phế hư thì có triệu chứng hay thở hụt hơi hoặc có kèm theo ho, tiếng nói nhỏ yếu, lưỡi nhạt, cơ thể dã dượi; nếu kiêm chứng táo nhiệt thì tân dịch khô, khó nuốt, đổ mồ hôi, mặt đỏ từng hồi, người hâm hấp sốt, khát nước, rêu lưỡi tróc, mạch đi vi nhược. Nếu do thận hư thì dễ mệt, cử động mạnh một chút là tăng cơn suyễn, mu bàn chân sưng, ớn lạnh, chân tay lạnh, mạch đi vi trầm mà nhược; nếu do thận âm hư thì có triệu chứng ngũ tâm phiền nhiệt, ho suyễn đau họng, mặt đỏ, bồn chồn vật vã suốt ngày, mạch đi tế sác.

– Nếu do thận hư mà thấy hiện tượng hơi bốc lên, chân lạnh đổ mồ hôi đầu, suyễn thở gấp rút, vật vã, mạch đi phù đại mà vô căn hoặc thấy đi tiêu lỏng như nước đều là chứng nguy.

  1. Điều trị:

Đông Y điều trị bệnh hen suyễn dựa theo mạch và chứng. Hen hàn thì dùng thuốc ôn hòa hoặc tuyên tán, hen nhiệt phải thanh phế khử đàm. Suyễn thực phải khu tà, suyễn hư thì bổ chính. Sau đây là một số bài thuốc nghiệm trị nổi tiếng của danh y xưa cũng như hiện nay:

Nghiệm phương đơn giản:

  1. Theo danh y Tuệ Tĩnh (Nam Dược Thần Hiệu):

– Hạt trà 2 hạt, nước vo gạo nếp một ít. Mài hạt trà trong nước vo gạo nếp cho đặc, nhỏ vào lỗ mũi mỗi bên 2 – 3 giọt rồi hít vào miệng và nuốt xuống. Dùng một ống hút ngậm vào miệng, chốc lát nước bọt, đàm nhớt sẽ chảy ra như dãi lụa. Làm 3 – 4 lần thì tuyệt nọc. Phương này kinh trị hen suyễn khò khè, bất cứ người lớn hay trẻ con đều có công hiệu.

– Sinh Bạch mao căn (rễ tranh tươi) 1 nắm, sắc uống, 3 lần là khỏi bệnh, rất hay.

– Lá hẹ 1 nắm, sắc với 3 bát nước cho đặc mà uống là yên.

– Lai phục tử (hạt cải củ) nhiều ít tùy ý, đem đãi nước cho sạch, nấu với ít nước chín, phơi khô, tán bột mịn rồi tẩm nước cốt gừng, cuối cùng quết với bánh chưng cho dẻo, vò viên bằng hạt đậu xanh, sấy hay phơi thật khô. Mỗi ngày 3 lần, mỗi lần nuốt 30 hoàn với nước đun sôi, để nguội là lành. Bài này chuyên trị đờm suyễn kéo lên khò khè do ăn quá nhiều đồ béo bổ

– Tử tô tử (hạt tía tô), hạt cải bẹ trắng (bạch giới tử), lai phục tử (hạt cải củ), liều lượng bằng nhau. Đem 3 thứ hạt này sao cho thơm, tán nhỏ, đổ 1 bát nước nấu cho sôi vài dạo rồi cho người bệnh uống nóng, yên ngay. Bài này chuyên trị người già khí thực, trai tráng bị đàm nghẹt mà lên cơn suyễn thở.

  1. Theo nghiệm phương dân gian:

– Chế bán hạ 10g, tạp giáp (bỏ vỏ sao vàng) 2 quả, cam thảo 4g, gừng tươi 3 lát. Nấu với 1 chén nước lọc, sắc còn nửa chén, uống lúc thuốc còn ấm, ngày 1 – 2 lần. Trị đàm suyễn ngạt thở, không nằm được, rất hay.

– Ma hoàng 6g, cam thảo 6g, hạt nhân 6g, gừng tươi 5 lát, đại táo 2 quả. Nấu với 1 chén nước lọc, sắc còn nửa chén, uống lúc thuốc còn ấm. Trị phế cảm phong hàn gây suyễn thở không ngừng.

– Đình lịch tử 300g, đem sao cho vàng, tán bột mịn, luyện với mật ong, vò viên tròn bằng đầu ngón tay. Mỗi lần dùng 3 chén nước lọc, thêm 10 quả táo đen, đun sôi cho cạn còn 2 chén nước, vớt bỏ xác táo, cho 1 hoàn Đình lịch vào, tiếp tục sắc cạn còn 1 chén, chia uống 2 lần. Trị phế đàm đầy ngực, hung cách tắc nghẹn gây khó thở, đầu mặt tay chân sưng phù.

– La bặc tử (sao thơm) 1/2 chén cơm, Hạnh nhân (sao chín) 1/2 chén ăn cơm, Cam thảo 60g, phần con sâu trong thân cây dâu tằm (sao chín) 1 chén. Tất cả đem nghiền bột mịn, trộn với nước cháo nếp cho dẻo, vò viên to bằng ngón tay cái, phơi hay sấy thật khô. Mỗi ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần 1 viên với nước gừng nhạt. Chuyên trị suyễn thử hụt hơi lâu năm.

– Trử ma căn 300g, Đường cát trắng 200g. Nấu cho đặc như kẹo mạch nha. Ngày nhai nuốt 2 – 3 lần, mỗi lần 1 muỗng ăn canh. Trị hen suyễn, trừ bệnh tận gốc rất thần hiệu.

– Ma hoàng nhung 4g, Tử tô tử (sao) 4g, Hạnh nhân (bỏ đầu nhọn) 4g, Tang bạch bì (sao) 4g, Xích phục linh (bỏ vỏ) 4g. Quất hang 4g, Cam thảo 2g, gừng tươi 5 lát, Đại táo 1 quả. Nấu với 1 chén nước, sắc còn nửa chén uống hết 1 lần. Trị đàm suyễn, khò khè khó thở rất hay.

– Ma hoàng nhung 10g, Chích cam thảo 8g, Bạch quả 5 quả (giã dập). Nấu với 1 chén nước, sắc còn nửa chén uống hết lúc đi nằm. Trị trai, gái hen suyễn.

– Hậu phác 30g, gừng tươi 7 lát, nước 2 chén, sắc còn 7 phân, chia uống 2 lần. Trị hen suyễn đột ngột khó thở, uống vài lần là yên.

– Hẹ tươi (cửu thái), rửa sạch, đâm cho nát, vắt lấy 1 chén nước cốt, chia uống 2 – 3 lần là chậm đứng cơn suyễn, rất hay.

  1. Theo Y Tổ Việt Nam – Hải Thượng Lãn Ông:

Trong sách “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh”, Chương “Hành Giản Trân Nhu” và “Y Trung Quan Kiện”, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác phân định rõ giữa hen và suyễn có một số dấu hiệu khác nhau:

 – Hen là hít vào không thông, hơi thở ngắn gấp, trong hơi thở có tiếng kêu khò khè hay gừ gừ như tiếng mèo kêu.

– Suyễn cũng thở ra hít vào ngắn gấp nhưng hơi thở dài hơn, sâu hơi.

  1. Theo danh y Phó Thanh Chủ, Trung Quốc (Nam nữ khoa):
  2. Khí trị pháp (phép trị bệnh về khí):

Bệnh khí hư (suy yếu mà hàn), bệnh Khí thực (đầy chắc mà nhiệt), phép trị dù hư hay thực cũng đều nên bình trị. Bởi vì bệnh khí hư là do chính khí hư mà tà khí thực, còn bệnh khí thực cũng do chính khí hư mà tà khí thực chứ không phải chính khí thực. Vậy thì chính khí hư hay thực cũng đều bởi tà khí thực mà ra. Phép trị đều nên dùng thuốc bổ chính khí, gia thêm thuốc khứ trục tà khí thì chính khí sẽ đầy đủ mà tà khí tiêu tan.

  • Bệnh khí hư thì người gầy yếu, nên dùng:

Nhân sâm 4g; Bạch truật 4g; Ma hoàng 4g; Bán hạ 4g; Cam thảo 4g; Sài hồ 8g; Bạch thược 12g.

Sắc uống ngày 1 thang.

  • Bệnh khí thực thì người khỏe mạnh, nên dùng:

Bạch truật 4g; Sài hồ 8g; Cam thảo 4g; Chi tử 4g; Phục linh 12g; Bạch thược 8g; Sơn trà 4g; Trần bì 2g; Chỉ xác 2g.

Sắc uống ngày 1 thang.

  1. Khí suyễn (bệnh suyễn thuộc khí):

Phàm những người gò rút cổ lại rồi ưỡn ngực ra mà thở ngược lên, có người bảo là “Khí hữu hư”, nhưng kỳ thực là do “Khí bất túc”. Nếu nhận lầm hơi thở kia là “Phế khí thịnh” mà dùng những loại Tô diệp, Kiết cánh, Bách bộ, Sơn đậu cân để phát tán và thông khí thì người bệnh càng chóng nguy vong. Khí suyễn lại chia làm hai thể, Thực suyễn và Hư suyễn. Mới phát bệnh phần nhiều là thực tà, bệnh đã lâu phần nhiều thuộc khí hư thực tà mà suyễn thì hẳn là ưỡn ngực gò vai mà thở (thực suyễn), còn khí hư mà suyễn thì thở lên đều đều, nhè nhẹ (hư suyễn).

  • Thực suyễn:

Phàm những bệnh “Thực suyễn” thì hơi thở rất gấp, làm cho cổ họng có tiếng khò khè, 2 bả vai gò rút lại tựa hồ bệnh rất nặng mà thực ra là nhẹ. Nên dùng:

Mạch môn đông 12g; Hoàng cầm (sao) 08g; Tô diệp 04g; Ô dược 04g; Bán hạ 04g. Sơn đậu căn 04g.

 Sắc uống ngày 1 thang, uống 1 thang bệnh suyễn yên định, bất tất phải uống tới 2 thang.

  • Lại còn 2 phương trị bệnh “Thực suyễn” cũng rất hay:

Nhân sâm 15g; Binh lang 15g; Trầm hương 15g; Ô dược 15g.

Cách làm và dùng: mài thuốc trong một chén nước cho thành bột rồi đun sôi lên vài phút, uống lúc đói bụng. Uống xong là yên. Đây là bài thuốc “Tứ ma thang” chuyên trị chính khí bị tổn thương làm cho thở suyễn gấp rút, trong bụng buồn bực không an.

  • Hoặc dùng:

Bán hạ 10g; Trần bì 08g; Hậu phác 06g; Tô tử 04g; Đại táo 02 quả; Sinh khương 02 lát.

Sắc uống ngày một thang. Bài nầy có tên là “Tứ thất thang” gồm có 4 vị cộng lại thành 7 chỉ hay đồng cân nên gọi “Tứ thất”. Chuyên trị bệnh đưa hơi ngược thở suyễn

  • Hư suyễn:

Đại khái, hư suyễn thì thấy hơi thở tuy mạnh nhưng cổ họng không có tiếng khò khè, hai vai không gò rút lại, đó là vì thận khí đại hư và tỳ khí cũng muốn sắp tuyệt mà chưa tuyệt nên thốc ngược lên mà thở. Nên dùng “Cứu tuyệt thang” dưới đây:

Nhân sâm 30g; Thục địa 30g; Mạch môn đông 15g; Sơn thù nhục 10g; Ngưu tất 03g; Ngũ vị tử 03g; Bạch giới tử (sao) 03g.

Sắc uống ngày 1 thang.

  • Lại một phương trị bệnh hư suyễn cũng rất hay

Nhân sâm 90g; Thục địa 15g; Mạch môn đông 15g; Sơn thù nhục 12g; Ngưu tất 10g; Hồ đào nhục 10g; Câu kỷ tử      03g; Ngũ vị tử 03g; Sinh khương 03 lát.

Sắc uống ngày 1 thang.

Lý giải: Phương thuốc này thực tế là thuốc bổ thận thủy, không nhằm bổ phế, nhưng lại đúng là trị phế vì bổ thận thủy để cứu nguy cho phế kim. Lại nữa, nếu nghĩ rằng bổ thận thì không nên dùng nhiều nhân sâm vì nhân sâm là thuốc kiện Tỳ thổ. Nhưng không biết rằng thận thủy đã đại hư, mạng sống chỉ còn trong gan tấc, nếu không sử dụng lượng lớn nhân sâm để cấp bổ cho chân khí thì khó mà vực dậy cái khí nguyên dương đang đến hồi đoạn tuyệt. Cũng biết rằng nhân sâm dùng ít thì bốc lên mà dùng nhiều thì đi xuống mau chóng.

Cái hay của bài thuốc dùng nhân sâm đến 90g khiến cho thông xuống gốc bệnh để bổ khí và sinh thận thủy. Trong phương thuốc lại có thục địa, Sơn thù là những loại “đồng khí tương cầu”, dẫn thẳng vào mệnh môn, thì lo gì cái chuyện dùng nhiều. Nếu bị khí suyễn nặng còn phải dùng nhân sâm nhiều hơn nữa mới đúng.

Phương thuốc này dùng trị bệnh suyễn phát đã lâu, thuộc hư suyễn. Như vậy mới biết rằng suyễn chẳng những bởi phế khí hư mà còn bởi thận thủy suy kiệt nữa.

  1. Khí đoàn tự suyễn (hơi thở ngăn tựa như suyễn):

Bệnh này hơi thở ngắn tựa như suyễn mà thật không phải là suyễn. Nếu không phải suyễn mà lấy thuốc suyễn để trị thì sẽ nguy ngay. Bởi hơi thở ngắn là vì thận khí hư hao, khí xung lên thượng tiêu, bế tắc ở phế kinh, làm cho phế kinh giảm chức năng trao đổi khí nên thấy hiện tượng ngộp thở hay thở hụt hơi. Nên dùng phương dược sau đây:

Nhân sâm 60g; Thục địa 30g; Mạch môn đông 15g; Sơn thù nhục 10g; Ngưu tất 10g; Phá cố chỉ 10g; Câu kỷ tử 10g; Hồ đào nhục 10g; Ngũ vị tử 06g.

Sắc uống ngày 1 thang. Uống 3 thang hơi thở điều hòa, hết hiện tượng thở khó, thở mệt

Phương thuốc này hay ở chỗ dùng nhân sâm nhiều để dẫn khí tại những nơi không chủ đích trở về vị trí cũ mau chóng. Lại nhờ thêm những dược phẩm bổ phế, bổ thận theo phép “mẫu tử tương sanh” thì thủy tự nhiên vượng, hỏa khí tự nhiên yên không thốc lên cổ họng nữa.

  • Đài kiên đại suyễn (Suyễn mạnh quá gò vai lại):

Con người đột nhiên cảm gió lạnh lọt vào phổi làm cho khí nghịch lên, hơi thở suyễn gò cả 2 vai lại, chỉ bắt ngồi chứ không thể nằm, đàm thì sít cứng khạc nhổ không ra.

Nên dùng:

Sài hồ 08g; Phục linh 08g; Mạch môn đông 08g; Kiết cánh 08g; Hoàng cầm (sao) 04g; Đương qui 04g; Cam thảo 04g; Bán hạ 04g; Xạ can 04g.

Sắc uống ngày 1 thang

Phương thuốc này hay ở chỗ dùng sài hồ, kiết cánh, xạ can để khai khoát và làm thư thái cho phế khí; dùng bán hạ để khử đàm; hoàng cầm để khử hỏa. Bởi thu cảm gió lạnh bên ngoài tất nhiên bên trong biến thành nóng, cho nên dùng Hoàng cầm để thanh giải Phong hỏa. Nhưng nếu dùng độc vị hoàng cầm, tuy có thanh hỏa thì dũng chỉ tạm đè nén cái Hỏa chứ chưa thể triệt tiêu được cái hỏa đang ẩn phục, cho nên phải thêm xạ can, kiết cánh, sài hồ là những thuốc tân tán mới đủ sức để tiêu hảo, diệt tà khí.

  • Thận hàn khí suyễn (Thận lạnh làm suyễn):

Những người suyễn ngược, chỉ ngồi, không nằm, hễ nằm xuống thì suyễn tốc lên ngay, đàm cứ thổ ra òng ọc, miệng lưỡi tua nhuận không bị khô mà suyễn thở không ngừng. Đây không phải do “ngoại cảm hàn tà” mà chính do “thận trung hàn khí”. Bởi Thận mà hàn vì Thận không có Hỏa, Thận không có Hỏa thì Thủy không được Hỏa dưỡng, nên thủy tốc lên làm đàm. Nên dùng:

Thục địa 30g; Hoài sơn 15g; Sơn thù nhục 15g; Phục linh 12g; Trạch tả 12g; Mẫu đơn bì 12g; Nhục quế 06g; Phụ tử 06g.

Sắc uống ngày 1 thang.

Bài thuốc trên có tên là “Bát bị hoàn”, tức bài “Lục vị hoàn” gia Nhục quế, Phụ tử để bổ Thận khí thì sẽ nằm nghỉ yên được. Khi nằm yên được thì hẳn là Thận khí và Phế khí cũng yên, đường thủy lộ thông suốt, không còn rẫy lên làm suyễn nữa.

  • Thận hỏa phù Can thượng xung (Thận hỏa giúp Can hỏa tốc lên):

Có người hễ thận hỏa nghịch lên khiến Can hỏa cùng bức phá theo làm ra suyễn. Nếu nặng quá thổ ra đàm, trong đàm có lẫn chất hơi hồng hồng thì đúng là thận hỏa bốc lên đốt chất Phế kim. Phế kim bị nóng, không khắc chế dược can theo cái lẽ ngũ hành (Kim khắc Mộc) thì Long lôi hỏa (âm hỏa) của Can tốc lên làm ra suyễn. Nên dùng:

Bắc sa sâm 30g; Địa cốt bì 30g; Mạch môn đông 15g; Bạch thược (sao) 15g; Bạch giới tử (sao) 06g; Mẫu đơn bì 10g; Kiết cánh 02g; Cam thảo 01g.

Sắc uống ngày 1 thang

Phương thuốc này hay ở chỗ dùng địa cốt bì để thanh cái Hỏa trong xương; dùng Sa sâm, Mẫu đơn bì để dưỡng âm; Bạch thược để bình can; Mạch môn để thanh Phế; Kiết cánh, cam thảo để dẫn thuốc vào phế kinh thì đàm tiêu mà suyễn hạ.

  • Gia nhiệt khí suyễn thổ đàm (Không phải nhiệt, thở suyễn ói ra đàm):

Bệnh thở suyễn, thổ ra đàm mà mình phát nóng, có người cho là nhiệt nhưng không phải nhiệt đâu. Hiện tượng trên do hạ nguyên cực hàn rồi bức bách cái Hỏa bốc lên làm ra suyễn. Bệnh đó rất nguy cấp. Nếu không cấp bổ Thận thủy và bổ mệnh môn hỏa thì cái đường nhỏ của nguyên dương còn lại tất cũng tận tuyệt. Nên dùng:

Thục địa 120g; Hoài sơn 90g; Mạch môn đông 90g; Ngũ vị tử 30g; Ngưu tất 30g; Phụ tử 03g; Nhục quế 03g.

Sắc uống ngày 1 thang. Nên uống lúc thuốc nguội hẳn, 1 thang là lành.

  • Suyễn thấu (Ho suyễn):

Những bệnh suyễn mà lại có ho, người không biết cho là khí hư và có phong đàm, còn thầy giỏi thì biết ngay do khí hư không qui nguyên về với Thận nên Can mộc hiệp với khí làm dữ. Pháp trị phải đại bổ cho Thận, trong đó có thêm những vị thuốc dẫn hỏa làm trợ tá thì khí tự nhiên qui nguyên nề với Thận mà ho suyễn đều hết. Nên dùng:

Thục địa 60g; Nhân sâm 30g; Mạch môn đông 15g; Phục linh 10g; Ngưu tất 03g; Câu kỷ tử 03g; Bạch truật 03g; Ngũ vị tử 03g; Thỏ ty tử 03g.

Sắc uống ngày 1 thang, uống luôn mấy thang thì khỏi bệnh

Lại như bệnh suyễn mà mạch vi sắc (nhỏ, yếu) là do Can thận đại hư. Nên dùng:

Đương qui 210g; Thục địa 90g; Chích cam thảo 03g.

Sắc uống ngày 1 thang. Bài này có tên là “Trung nguyên ẩm” và phụ nữ thường hay gặp loại bệnh suyễn nầy lắm

  1. Theo “Thiên Gia Diệu Phương” của Trung Quốc:

Trong “Thiên Gia Diệu Phương” thường dùng từ chuyên môn của Tây y, bởi vì hiện nay đa số bệnh viện y học cổ truyền Trung Quốc đều có kết hợp với y học hiện đại qua hội chẩn, xét nghiệm cũng như quyết định hướng điều trị dựa theo phương thức “Đông – Tây Y hợp trị”. Các thầy thuốc Trung Quốc lại gọi bệnh hen suyễn là “Hen Phế Quản”, đây chỉ là cách dùng từ theo thói quen.

  • Bài số 1: Hen phế quản

– Biện chứng Đông y: Hàn tà phạm phế, khí cơ thất lợi

– Pháp trị: Tán hàn bình suyễn

  • Bài thuốc: Cao trị hen suyễn

Công thức:

Chế nam tinh 15g; Chế bán hạ 15g; Kiết cánh 15g; Xuyên bối mẫu 15g; Tế tân 15g; Hạnh nhân 15g; Sinh cam thảo 15g; Ngũ vị tử 15g; Ma hoàng nhung 10g; Tử tô tử 10g; Khoản đông hoa 10g; Sinh tử uyển 10g; Ma dầu (dầu gai) 200g; Bạch mật (mật trắng) 120g; Khương trấp 120g (nước gừng).

Cách làm: Trước hết, cho 12 vị dược liệu vào cái nồi đựng dầu gai, ngâm trong 24 giờ. Tiếp theo, bắc nồi thuốc lên bếp đun lửa nhỏ, khi sôi dùng thìa to khuấy đều cho đến khi nào thuốc đổi màu đen sẫm thì vớt bỏ xác thuốc. Cuối cùng cho mật trắng và nước cốt gừng tươi vào nồi đun tiếp thành cao đặc, thấy nước cao nhểu thành câu là được (khoảng 440g).

Cách dùng: Mỗi ngày, khi trời gần sáng, múc uống 1 muỗng cà phê cao thuốc với nước đun sôi để nguội. Trẻ em, dùng nửa liều của người lớn.

Kiêng cử: Trong thời gian dùng thuốc này không được ăn các thực phẩm sống, lạnh, tôm, cua, uống rượu.

Hiệu quả lâm sàng: Lê Thị Dung 38 tuổi, có tiền sử hen phế quản kéo dài hơn 6 năm. Thoạt đầu mỗi năm lên cơn hen 1 – 2 lần, thường xảy ra vào mùa đông xuân với thời tiết lạnh. Đã dùng ephedrin và các Đông Y thì thấy dứt cơn, nhưng 2 năm trở lại đây bệnh trở nặng, cứ cách vài hôm lên cơn hen một lần; mỗi lần kéo dài hằng tuần lễ mới dịu xuống. Dùng thuốc Đông Y, Tây Y chỉ hạ cơn hen đôi chút nhưng tần suất thì không thay đổi.

Cho uống “Cao trị hen” liên tục khoảng 250g, cơn hen dứt hẳn. Lại tiếp tục khuyên bệnh nhân uống tới 2500g cao thuốc, đồng thời dùng thêm thành phẩm “Kim quỹ thận khí hoàn”, và bột “Tử hà xa” sau khi xuất viện. Theo dõi 21 năm chưa thấy tái phát.

Bình luận: “Cao trị hen” xuất xứ từ bộ sách phật học “Tây phương công cứ kinh nghiệm lương phương” chỉnh lý gia giảm mà thành. Trên lâm sàng ứng dụng mấy mươi năm nay có hiệu quả tốt để trị “Hen phế quản”, đặc biệt hen phế quản dạng hàn chứng thì hiệu quả càng cao.

Khi dùng bài thuốc này nên căn cứ vào lý luận Đông Y “Thận bất nạp khí, Phế bệnh tại tỳ, Tử bệnh luy mẫu”, ngoài việc khống chế cơn hen cần điểu bổ tỳ thận qua bài “kim quỹ thận khí hoàn”, “Hà xa đại tạo hoàn” để tăng cường cả gốc lẫn ngọn thì sẽ thành công trọn vẹn.

Ghi chú:

– “Kim quỹ thận khí hoàn” gồm các vị: Thục địa, Hoài sơn, sơn thù nhục (để bổ thận âm), Phụ tử, Nhục quế (để bổ thận dương), sa sâm, Ngũ vị tử, Phá cố chỉ, Hồ đào nhục (để thu nạp dương khí).

– “Hà xa đại tạo hoàn” gồm các vị: Tử hà xa, Nhân sâm, Sinh địa, Đỗ trọng, Thiên môn đông, Qui bản, Hoàng bá, Phục linh, Ngưu tất.

  • Bài 2: Hen phế quản

– Biện chứng đông y: Đàm ẩm suyễn quản

– Pháp trị: Tuyên phế hóa đàm, bình suyễn chỉ khái

  • Bài thuốc: “Tiêu suyễn thang”

Công thức:

Chích ma hoàng 10g; Tế tân 10g; Xạ can 10g; Sinh thạch cao 25g; Ngũ vị tử 10g; Chích cam thảo 10g; Chế bán hạ 10g.

Sắc uống ngày 1 thang, chia làm 3 lần. Với người bệnh lâu ngày, hư nhược, liều lượng có thể giảm bớt hoặc uống nhiều lần hơn.

Gia giảm: Bệnh thiên về hàn thì gia thêm Can khương 10g, Phụ tử 10g, giảm bớt Sinh thạch cao còn 15g. Bệnh thiên về nhiệt thì gia thêm Tang bạch bì 12g, Hoàng cầm 10g. Người bị suyễn nặng, gia thêm Can địa long 10g, Bạch quả 10g. Người có nhiều đàm, gia thêm triết bối mẫu 10g, Trúc lịch 10g.

Hiệu quả lâm sàng: Lê Văn Sung 39 tuổi, có tiền sử bị cảm lạnh biến thành ho hen suyễn từ năm lên 10 tuổi. Được điều trị tạm ổn định nhưng về sau lớn lên thì bệnh ngày càng nặng, mỗi lần bị nhiễm lạnh lại lên cơn hen không dứt, dùng thuốc gì cũng không khỏi. Một năm trở lại đây, mỗi lần lên cơn hen, phải ngồi so vai ngửa cổ mà hít thở rất thảm hại. Đã dùng ephedrin, aminophyllin vẫn không cắt được cơn hen, dùng corticoid cũng chỉ khống chế khoảng 20 – 30 phút và tiêm truyền hormone vào tĩnh mạch thì phải chờ tới 1 ngày sau mới cắt nỗi cơn hen.

Sau khi cho uống “Tiêu suyễn thang”, chỉ 1 thang là cơn hen giảm quá nửa, hết 2 tháng thì cắt hẳn cơn hen. Liền đổi qua bài “Lục quân tử thang” và “Sinh mạch táo” nhầm “Bồi thổ sinh kim” hợp với bài “thất vị đô khí thang” để ôn thận nạp khí: lần lượt thay nhau điều lý, khi lên cơn hen thì vẫn dùng “tiêu suyễn thang”. Cứ như thế tiếp tục điều trị hơn 6 tháng, bệnh tình cải thiện rất tốt, cơn hen nhẹ dần, thể lực tăng lên rõ rệt. Một năm sau bệnh khỏi hoàn toàn.

Bàn luận: bài thuốc trên được chọn lọc và phối hợp dựa theo các bài thuốc trị hen như “Tiểu thanh long thang”, “Xạ can ma hoàng thang”, “Ma hạnh thạch cam thang” mà lập ra. Trong bài thuốc, chú trọng sử dụng Ma hoàng để tuyên phế bình suyễn, Tế tân để ôn phế hòa đàm, Xạ can để giáng khí nghịch, Bán hạ hóa đàm khử ẩm, Ngũ vị tử liễm phế chỉ khái và khống chế sức phát tán của tế tân, Sinh thạch cao để thanh phế giải nhiệt và khống chế sức phát hãn của Ma hoàng, Chích cam thảo nhuận phế cầm ho và điều hòa các vị khác nên đạt được mục đích hóa đàm tuyên phế bình suyễn chỉ khái. Người xưa nói: “Tế tân bất quá tuyến”, nghĩa là dùng tế tân không được vượt giới hạn cho phép, nay dùng Tế tân tới 10g (quá giới hạn) nhưng lại đạt hiệu quả mà không thấy phản ứng phụ nào. Đó là thuật phối ngũ đúng.

  • Bài 3: Hen phế quản

– Biện chứng Đông Y: Phế tỳ khí hư, khí đàm kết chặt, bản (gốc) hư, tiêu (ngọn) thực

– Pháp trị: Bổ phế ích tỳ, tiêu đàm giáng khí

  • Bài thuốc: “Sam giới tán gia vị”

Công thức:

Cáp giới (tắc kè) 02 con; Nhân sâm 15g; Hoài sơn 60g; Hạnh nhân 25g; Chánh trầm hương 12g; Nhục quế (tốt) 12g; Chế bán hạ 30g; Sinh hoàng kỳ 60g; Hồ đào nhân 60g; Bạch quả (bỏ vỏ) 30g; Tang bạch bì 30g; Cam thảo 15g.

Cách làm: Cáp giới chặt bỏ đầu và 4 chân. Đem tất cả tán bột mịn, bỏ vào lọ dùng dần.

Cách dùng: Uống ngày 3 lần, mỗi lần 4 – 6g với nước đun sôi để nguội.

Ghi chú: Nếu bệnh nhân mà chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng là dấu hiệu Can thận dương vượng, hảy bỏ nhục quế, gia thêm Nữ trinh tử 30g và câu kỷ tử 30g.

Hiệu quả lâm sàng: Bài thuốc “Sâm giới tán” đã trị 12 can hen phế quản kinh niên đều đạt kết quả tốt.

Lê Hoàng Minh 45 tuổi bị hen phế quản hơn 4 năm, thường lên cơn suyễn thở, nhiều đàm, hễ gặp lạnh hay hít phải mùi khói thải là lên cơn, ngực co rúm, khó thở ra, ho khạc ra đàm đặc trắng, bệnh tình ngày càng nặng thêm. Tây y chẩn đoán hen phế quản, đã trị bằng ephedrin, aminophyllin, adrenelin, lúc đầu có hiệu quả khá tốt nhưng về sau chẳng thấy công hiệu chút nào. Tây y phải sử dụng tới cả thuốc phun sương cortison để cắt cơn hen mới có thể tạm ổn nhưng vẫn không dứt bệnh, phải chuyển qua Đông y.

Đông y, qua diện chuẩn, thấy sắc mặt bệnh nhân trắng bệch, lưỡi nhạt rêu trắng, lục mạch đi trầm hoãn, chẩn đoán bệnh do “Thái âm hư suyễn”, khí và đàm kết lại ngăn cản sự thăng giáng. Pháp trị là khi lên cơn hen suyễn thì dùng thuốc cắt cơn, “cấp tắc trị kỳ tiêu”, trị ngọn; lúc hết cơn thì trị nguyên nhân, “Hoãn tắc trị kỳ bản”, trị gốc, lưỡng bổ Phế Tỳ. Cho uống liền 4 liều “Sâm giới tán gia vị”, đồng thời dùng thuốc phun sương cortison để chống lên cơn. Sau 4 tháng, bệnh nhân khỏe mạnh, sức lực dồi dào, không còn lên cơn hen suyễn. Nhưng tất cả thuốc tây và thuốc Đông dược, bệnh vẫn không tái phát, thể chất lẫn tinh thần người bệnh đều tăng cao, bệnh khỏi.

Bàn luận: Qua nghiên cứu, bài “Sâm giới tán gia vị” có tác dụng làm thay đổi phản ứng sinh học, điều tiết hormone. Vì bệnh thuộc loại mãn tính, dễ bị kích thích do môi trường không ổn định, lúc đầu cần phối hợp cả thuốc Tây lẫn Đông dược để vừa ngăn chặn cơn hen vừa bồi bổ gốc bệnh. Về sau, khi nguyên khí hồi phục, bỏ dần sự lệ thuộc thuốc Tây (cortison) rồi giảm luôn Đông dược (Cáp giới tán) để cho cơ thể tự phục hồi hệ thống miễn dịch. Tiến trình điều trị cần duy trì từ 6 tháng đến 1 năm mới thấy kết quả hoàn toàn.

  • Bài 4: Hen phế quản

– Biện chứng Đông Y: Can khí uất kết, khí nghịch không giáng

– Pháp trị: giải uất tiết nhiệt, thanh can giáng nghịch

  • Bài thuốc: “Ngũ ma ẩm hợp Tứ nghịch tán gia giảm”

Công thức:

Trầm hương 06g; Ô dược 10g; Nhục quế 04g; Hoàng liên 10g; Mộc hương 06g; Sài hồ 12g; Đại bạch 12g; Chỉ xác 12g; Sinh bạch thược 20g; Xạ can 10g; Cam thảo 06g.

Cách làm: Trước hết, đem Hoàng liên và Bạch thược nấu lấy khoảng nửa chén nước. Các vị thuốc còn lại đem xay hay tán thô, xong đổ nửa chén nước thuốc vào trộn đều cho hút kiệt nước. Cuối cùng lại đổ nước sắc với ngọn lửa nhỏ, lấy chừng 2/3 chén, chia uống 4 lần. Ngày dùng 1 thang.

Hiệu quả lâm sàng: Lý Thu Hà 21 tuổi, hơn 3 năm trước bị cảm lạnh kéo dài cả tháng mới khỏi. Tuy nhiên, người bệnh luôn cảm thấy tức ngực, họng khó nuốt không thông rồi biến thành suyễn. Mỗi năm cứ cuối xuân sang hè hoặc bực bội giận hờn là lên cơn hen. Khi lên cơn không nằm ngửa được, ho đàm mà không nhiều, đã trị nhiều cách nhưng không dứt bệnh.

Tại bệnh viện, cho xét nghiệm máu, nước tiểu, phân đều bình thường. Cho chiếu X-rays thấy 2 lá phổi sáng rõ, tim phổi bình thường. Dùng thuốc aminophyllin trị hen suốt 3 tuần lễ vẫn không cắt đứt cơn hen, liền chuyển qua Đông Y điều trị. Lúc này, họng bệnh nhân có tiếng đàm khò khè, suyễn khó thở, tức ngực, nấc ngược, bụng đầy không thiết ăn uống, không nằm được, mạch đi hoãn huyền hữu lục. Sau khi cho uống “Ngũ ma ẩm hợp Tứ nghịch tán gia giảm” 1 tuần lễ, bệnh nhân cảm thấy dễ chịu, cơn hen suyễn thưa dần và nhẹ dần, hơn 1 tháng lành bệnh.

Bàn luận: Hen suyễn là do bế tắc đường thăng giáng của khí. Bệnh nhân vốn người khỏe mạnh, không có hiện tượng khí hư nên dùng “Ngũ ma ẩm” để điều khí giáng nghịch, thông đạt khí cơ; dùng “Tứ nghịch tán” để sơ can giải uất, điều hòa can vị, trên dưới lưu lợi, không cần trị suyễn mà suyễn phải lui. Hai bài thuốc không chú tâm trị suyễn, kết hợp lại nhằm tác động vào cơ chế sinh bệnh trị gốc, bệnh khỏi lâu dài.

  • Bài 5: Hen phế quản

– Biện chứng Đông y: Đàm hỏa phạm phế, ứ tắc phế khí gây suyễn

– Pháp trị: thanh nhiệt hóa đàm, tuyên phế lợi khí

  • Bài thuốc: “Tiền hồ thang gia vị”

Công thức:

Tiền hồ 12g; Hạnh nhân 10g; Tang diệp 12g; Tri mẫu 12g; Mạch môn đông 10g; Hoàng cầm 10g; Kim ngân hoa 15g; Tỳ bà diệp 12g; Khoản đông hoa 10g; Kiết cánh 10g; Cam thảo 06g.

Sắc uống ngày 1 thang. Kiêng ăn thực phẩm cay, tanh.

Hiệu quả lâm sàng: Lê Thị Hoa 26 tuổi, trước đây mấy tháng bị lên cơn ho suyễn, trong cổ họng luôn có đàm rít, đàm màu vàng đặc, khó thở, đau tức cả vùng ngực, miệng khát nước, lòng bực bội, mặt đỏ, môi đỏ, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch đi hoạt sác hữu lực. Chẩn đoán bệnh thuộc loại đàm hỏa phạm phế là ứ tắc phế khí, mất chức năng túc giáng gây ra hen phế quản. Pháp trị cần thanh nhiệt hóa đàm, tuyên phế lợi khí. Cho uống 4 tháng “Tiền hồ thang gia vị”, mạch chuyển sang hoãn hoạt, rêu lưỡi khá tươi nhuận, đàm loãng, bớt vàng, hết đau ngực, dễ thở, hết suyễn. Lại cho uống tiếp 5 thang nữa nhưng bỏ Khoản đông hoa, gia thêm Thiên hoa phấn 12g, bệnh khỏi hoàn toàn.

Bình luận: Trường hợp này cổ nhân nói: “Nhiệt giả hàm chi”, do đàm hỏa bị bế tắc mà quá vượng. Sử dụng các vị thuốc khổ hàn, tân can để thanh nhiệt hóa đàm là hợp chứng, dùng kiết cánh để đưa lên tới tạng phế; Khoản đông hoa tả nhiệt nhuận phế tiêu đàm, trừ bực bội, ngừng ho; Tỳ bà diệp tả Phế dáng hỏa, cho nên chỉ có 4 thang thì hỏa tán đàm tiêu, hết suyễn. Lại bỏ vị Khoản đông hoa, thêm thiên hoa phấn là lấy tác dụng toan cam vị khổ hàn của nó để sinh tân nhuận phế, phục hồi chức năng phế âm bị đàm hỏa gây thương tổn. Tổng cộng 9 thang đã loại trừ tuyệt căn bệnh suyễn.

  • Bài 6: Hen phế quản

– Biện chứng Đông y: thận khí hư, đàm hàn gây ứ tắc khí đạo

– Pháp trị: tả phế, ích thận, nạp khí

  • Bài thuốc: “Thận khí thang gia vị”

Công thức:

Thục địa 15g; Hoài sơn 15g; Phục linh 15g; Câu kỷ tử 10g; Trạch tả 10g; Mẫu đơn bì 10g; Phụ tử 10g; Nam tinh 10g; Đình lịch tử 10g; Nhục quế 03g.

Sắc uống ngày 1 thang.

Hiệu quả lâm sàng: Vương Tiến Trung 63 tuổi, có tiền sử bị hen phế quản trên 20 năm. Về sau bệnh càng nặng thêm. Một năm nay thở rất khó khăn, tức ngực, không nằm được, đàm nhiều có lẫn bọt trắng. Chẩn mạch thấy tế huyền hoãn, khám thấy lưỡi đỏ nhạt, hai mép lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi trắng hơi dày. Cho uống liền 3 thang “Thận khí thang gia vị”, bệnh nhân đã nằm nghĩ được, bớt mệt, thở dễ. Cho uống thêm 20 thang nữa, bệnh khỏi, cho xuất viện.

Bàn luận: Sử dụng bài thuốc trên trị các bệnh hen suyễn khác cũng có kết quả nhưng nên bỏ Đình lịch tử, gia thêm Can địa long 10g và Hùng hoàng 0.6g (hòa với thuốc mà nóng).

  • Bài 7: Hen phế quản (dự phòng lên cơn)

– Biện chứng Đông y: Phế khí hư nhươc, vệ khí bất cố

– Pháp trị: bảo phế ích khí

  • Bài thuốc: “Phòng suyễn thang”

Công thức:

Đông trùng hạ thảo 10g; Hoàng kỳ 12g; Đại táo 10 quả; Phổi heo 01 cái.

Cách làm và dùng: Phổi heo (không rửa nước) cho vào siêu hay ấm cùng với thuốc, đổi nước hầm nhừ, ăn phổi heo và uống nước thuốc. Dùng để phòng ngừa hoặc nhận biết sắp lên cơn suyễn.

Hiệu quả lâm sàng: Trịnh Mỹ Huyền 45 tuổi, đã bị hen suyễn 10 năm, gặp thời tiết thay đổi hay cảm mạo là lên cơn. Tây y đã trị bằng cách tiêm gamma globulin ngày 6 lần vẫn không kiến hiệu.

Đông y khám thấy người bệnh yếu sức, nói nhỏ, thường đổ mồ hôi, tiêu tiểu tương đối khá, lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch đi tế nhược. Chẩn đoán do phế khí hư nhược, vệ khí bất cố. Cho dùng “Phòng suyễn thang” để bảo phế ích khí, thời tiết thay đổi hoặc cảm mạo hay lên cơn thì dùng ngăn chặn. Ngoài ra, uống thêm “Lục quân tử thang” để củng cố, theo dõi hơn một năm sức khỏe vẫn ổn định.

  • Bài 8: Hen phế quản kèm giãn phế nang

Biện chứng Đông y: Thận hư phế thực, thượng thịnh hạ hư

– Pháp trị: Bổ thận nạp khí, lý phế bình suyễn

  • Bài thuốc: “Bổ thận lý phế thang”.

Công thức:

Thục địa 25g; Hoài sơn 30g; Phục linh 15g; Ma hoàng 10g; Hạnh nhân 10g; Tử tô tử 15g; Đàng sâm 25g; Đương qui 15g; Phá cố chỉ 30g; Ngũ vị tử 10g.

Sắc uống ngày 1 thang.

Gia giảm:

– Người bệnh đàm ít, uất bế, gia Tang bạch bì 12g, Đông qua tử 30g.

– Ngực đầy tức, gặp lạnh nặng thêm, gia Can khương 06g, Quế chi 10g.

– Nhiều đàm hoặc tiêu hóa không tốt, gia Trần bì 12g, Bạch truật 10g.

– Miệng khô, lòng bàn tay và chân nóng, mạch đi tế sác, bỏ Thục địa, Phá cố chỉ; gia thêm địa cốt bì 30g.

Hiệu quả lâm sàng: Trần Viết Hoàng 37 tuổi, có tiền sử bị hen phế quản gần 8 năm, 2 năm gần đây bệnh trở nên trầm trọng. Triệu chứng ngực đầy tắc, đàm kéo, thở gấp, mỗi ngày lên cơn 5 – 6 lần. Ho nhiều, đàm nhiều, thở hụt hơi, hoạt động một chút là lên cơn, tiêu hóa kém, dạ dày đầy trướng, mất ngủ. Đã nhiều năm dùng thuốc Tây, thuốc Bắc mà chưa thấy kết quả, hằng ngày phải chích aminophyllin mới kềm hãm nổi cơn hen.

Qua xét nghiệm, chẩn đoán là bệnh hen phế quản kèm giãn phế nang do thận không nạp khí, hàn ngưng khí trệ, ứ tắc phế kinh gây suyễn. Cho uống “Bổ thận lý phế thang” 3 tháng, bệnh giảm quá nửa, hết 7 thang đã bỏ được aminophyllin. Lại cho uống thêm 9 thang nữa, cắt được cơn suyễn, các triệu chứng biến mất. Liền bồi tiếp 10 thang nữa để củng cố, bệnh khỏi. Theo dõi 8 năm, người bệnh vẫn khỏe mạnh, chưa hề lên cơn suyễn một lần nào.

Bài thuốc Đông y trị bệnh hen suyễn mang tính chất tham khảo độc giả không nên tự ý bốc thuốc uống khi cần phải gặp bác sĩ đông y để được thăm khám và kê toa. Quý khách có nhu cầu thăm khám và tư vấn miễn phí vui lòng liên hệ:

Thiện Minh Y Quán

ĐC: B14/12/9, Cây Cám, Tân Vĩnh Lộc, TPHCM

ĐT & Zalo: 0904 890 895 – Website: www.thienminhyquan.com

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *