Bệnh cường giáp hay cương tuyến giáp (Hyperthyroidsim) là một bệnh nội tiết, lâm sàng rất thường gặp.
- Theo Y học hiện đại
Y học hiện đại cho rằng do yếu tố phản ứng miễn của cơ thể tác động làm tăng tiết tế bào tuyến giáp mà sinh bệnh, một số trường hợp xảy ra chấn thương tinh thần mạnh, đặc biệt ở lớp tuổi trung niên từ 30 – 45 tuổi, phái nữ mắc nữ mắc bệnh nhiều hơn phái nam theo tỷ lệ 4:1.
Phần lớn bệnh kèm theo to tuyến giáp, mắt lồi, tính tình hay cáu giận, hồi hộp, nhiều mồ hôi, mau đói, sụt cân, ngón tay run giật (tham khảo thêm ở bệnh Bướu giáp).
- Triệu chứng lâm sàng:
Phần lớn bệnh cường giáp phát triển chậm theo từng giai đoạn, ngoại trừ một số trường hợp phát triển đột ngột do nhiễm khuẩn tuyến giáp hay bị chấn thương tinh thần mạnh. Lâm sàng, căn cứ vào chứng trạng nặng nhẹ khác nhau có thể phân chia bệnh thành 4 cấp hay 4 thể:
- Thể nhẹ:
Thường là thời kỳ mới nhiễm với các triệu chứng: Cơ thể bứt rứt, tính tình dễ nóng giận, mệt mỏi, hay đánh trống ngực, tim hồi hộp, sụt cân, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc hơi vàng, mạch đi Huyền Tế Sác.
- Thể nặng:
Ngoài các triệu chứng nêu ở thể bệnh nhẹ, xuất hiện thêm một số triệu chứng đặc trưng. Thường có sốt nhẹ, nhiều mồ hôi, dễ đói, ăn nhiều nhưng vẫn sụt cân, đàn ông liệt dương, phụ nữ tắc kinh, mặt đỏ ửng, các ngón tay run rẩy, tuyến giáp to, mắt lồi, chất lưỡi đỏ, ít rêu hoặc vàng mỏng, mạch đi Tế Sác hoặc Kết Đại.
- Thể nguy:
Sốt cao, ra nhiều mồ hôi, nôn ói, tiêu chảy, thần trí hoảng hốt, nói sảng, sắc mặt tái nhợt, chân tay lạnh, lừ đừ, mạch đi Vi Tế rất khó bắt, có thể có vàng da, huyết áp hạ.
- Biển chứng:
Đau ngực, đánh trống ngực, tức ngực khó thở, vùng trước tim đau nhói. Cơ bắp cùng mềm yếu, đi đứng khó khăn do Kali máu hạ.
- Chẩn đoán:
Y học hiện đại chẩn đoán bệnh cường tuyến giáp thường căn cứ vào 4 yếu tố sau đây:
- Triệu chứng lâm sàng:
- Tuyến giáp to, lan toả hoặc có nhân.
- Có rối loạn chức năng thần kinh: Đau đầu, run tay, tăng nhiệt, đổ mồ hôi.
- Có rối loạn tâm thần: Mất ngủ, kém tập trung tư tưởng, dễ cáu gắt.
- Rối loạn tuần hoàn, tim mạch: Tim đập nhanh hoặc không đều, có tiếng thổi, tăng huyết áp kỳ tâm thu, giảm huyết áp kỳ tâm trương.
- Mắt lồi (lộ nhản), dấu hiệu Graph (+).
- Xét nghiệm:
- Ghi nhận chuyển hoá cơ bản chuyển hoá tăng.
- Cholesterol huyết giảm.
- Thyroidxine máu cao từ 12 – 20mcg/% (bình thường 4 – 8mcg/%)
- Độ tập trung iod trên 50%.
- Đánh giá nặng, nhẹ:
- Cường độ giáp độ I: Chuyển hoá cơ bản = +15 đến +30%, nhịp tim dưới 100 lần/phút. Bệnh nhẹ.
- Cường độ giáp độ II: Chuyển hoá cơ bản =+30 đến 630%, nhịp tim từ 100 – 120 lần/phút. Bệnh hơi nặng.
- Cường độ giáp độ III: Chuyển hoá cơ bản = trên +60%, nhịp tim trên 120 lần/phút. Bệnh hơi nặng.
- Cường độ giáp độ IV: Chuyển hoá cơ bản = trên +100%, nhịp tim trên 120 lần/phút. Bệnh rất nặng.
- Theo Đông y học
Đông y xếp bệnh cường giáp vào chứng “Anh lựu” thuộc thể “Can hoả”, nguyên nhân chủ yếu do thất tình rối loạn. Sách “Chư bệnh hậu luận” viết “Chứng anh là do buồn, lo, làm khí kết thành hình”. Sách “Ngoại khoa chính tông” thì nhận định: “Chứng anh lựu phát sinh, nếu không do âm dương chính khí mất quân bình thì cũng do ngũ tạng âm dương chính khí mất quân bình thì cũng do ngũ tạng âm hư hoá uất, đàm kết khí uất mà sinh ra”. Còn sách “Tế sinh phương, mục anh lựu luận trị” viết: “Chứng anh lựu phần lớn do vui buồn, nóng giận thất thường, ưu tư quá độ mà phát sinh”.
Có thể tóm lược vào 5 nguyên nhân sau đây:
– Can khí uất: Giận, ghét thất thường.
– Khí trệ lâu ngày sinh đàm kết.
– Huyết ứ do khí trệ, đàm kết.
– Hoả uất thượng xung do khí trệ đàm kết.
– Âm hư do uất nhiệt lâu ngày.
- Triệu chứng:
– Do can uất thì hay cáu gắt, bứt rứt không yên, bồn chồn lo lắng.
– Do khí trệ đàm kết thì tuyến giáp sưng to, mắt lồi (bướu cổ lộ nhản).
– Do huyết ứ thì hay đau tức ngực, phụ nữ tắc kinh, mạch đi Kết Đại.
– Do hoả uất thì hay phiền nhiệt, hồi hộp, mau đói, mặt nóng đỏ, nhiều mồ hôi, rêu lưỡi vàng, mạch đi Sác.
– Do âm hư thì người gầy, mình nóng, tay run, sốt nhẹ, miệng khô, nam thì liệt dương, nữ thì bế kinh, mạch đi Tế Sác.
- Điều trị:
Đông y trị bệnh tăng tuyến giáp thường dựa vào chứng và mạch. Tuy nhiên cũng căn cứ vào tình trạng bệnh biến nặng nhẹ xử phương.
– Chứng nhẹ: Thường do “Can uất khí trệ” với các triệu chứng ngực sườn đau tức, ăn ít, bụng đầy, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch đi Huyền.
Pháp trị chủ yếu là “Sơ can, thanh nhiệt, lý khí giải uất” với các vị thuốc chính: Sơn chi tử, Tri mẫu, Ngân sài hồ, Mẫu đơn bì, Bạch thược, Đương qui, Toan táo nhân, Bối mẫu, Hải tảo, Mẫu lệ. Nếu không hiệu quả, chuyển sang bài thuốc trị thế nặng.
– Chứng nặng: Thường do “Khí uất đàm kết, táo hoả thương âm” với các triệu chứng: Bứt rứt, nóng nảy, hay cáu gắt, sắc mặt đỏ ủng, miệng đắng, vã mồ hôi nhiều, hoa mắt, chóng mặt, cổ phồng to, chân tay run rẩy, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch đi Huyền Sắc. Nếu do Can hoả phạm vị, sẽ thấy bệnh nhau mau đói, ăn nhiều.
Pháp trị chủ yếu là “Dưỡng âm tả hoả, hoá đàm tán kết” với các vị thuốc: Hạ khô thảo, Tri mẫu, Cúc hoa, Huyền sâm, Thiên hoa phấn, Hải tảo, côn bố, Bối mẫu, Long đởm thảo, Hoàng cầm, Sinh địa, Ngọc trúc, Mẫu lệ.
– Chứng nguy: Thường do “Táo hoả cực thịnh làm suy kiệt khí âm” với các triệu chứng: Bứt rứt khó ngủ, hồi hộp, mồ hôi ra như tắm, mệt nhọc, thở khó, chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch đi Tế Sắc.
Pháp trị chủ yếu là “Dưỡng tâm an thân, tư âm sinh tân” kết hợp với truyền dịch để cấp cứu hồi sức. Bài thuốc căn bản gồm các vị: Sa sâm, Huyền sâm, Mạch môn đông, Thiên môn đông, Sinh địa, Bá tử nhân, Ngũ vị tử, Nữ trinh tử, Qui bản, Câu kỷ tử, Tri mẫu, Hoàng bá.
- Biến chứng:
Nếu do “Can khí uất trệ, nhiệt đàm khí tắt kinh lạc” thì thấy triệu chứng đau ngực (hung tý). Pháp trị phải “Sơ can thông lạc, thanh nhiệt hoá đàm” gồm các vị: Chế bán hạ, Qua lâu bì, Chỉ thực, Uất kim, Hồng hoa, Tử đan sâm, Đăng tâm thảo, Hoàng liên.
Nếu do “Can thịnh tỳ hư, khí thoát đàm kết” thì thấy tay chân yếu, mềm, vô lực. Pháp trị phải “Thanh can trợ tỳ, hoá đàm tán kết” gồm các vị: Mẫu đơn bì, Sơn chi tử, Thái tử sâm, Sinh Bạch Truật, Chính Hoàng Kỳ, Chế bán hạ, Thanh bì, Xuyên ngưu tất, Bạch cương tằm, Côn bố.
- Điều trị:
- Bài 1:
– Biện chứng Đông y: Do khí hư bất hoá
– Pháp trị: Bổ khí kiếm tiêu thủng
- Bài thuốc: “Cố thể thang”
Công thức:
Hoàng kỳ 50g; Đảng sâm 25g; Bạch truật 15g; Phục linh 25g; Bạch thược 15g; Hạ khô thảo 15g; Hải tảo 15g; Côn bố 15g; Sinh mẫu lệ 50g; Tử thạch 25g; Hồng táo 05 quả.
Sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Vương Thị Hà 24 tuổi, trong vòng 1 năm nay thấy cổ phình to, tim đập nhanh, thở mệt, ra nhiều mồ hôi, mất sức, bụng đầy, ván đầu, tay chân rã rời không bước lên cầu thang nổi, sốt âm ỉ, đã điều trị về bệnh thần kinh nhưng không có kết quả.
Khi tới khám bệnh với Đông Y, thấy mạch đi Hư Sác, lưỡi đỏ, rêu mỏng vàng, tuyến giáp sưng to, mắt lồi, hệ số hấp thu iot trong 3 giờ là 63%, 24 giờ là 54.5%. Chẩn đoán là bướu cổ thuộc dạng cường tuyến giáp. Theo Đông y, chứng này thuộc thể khi hư bất hoá. Sau khi cho dùng bài “Cổ thể thang” liền 2 tháng thì khỏi, cổ xẹp như xưa.
Bàn luận: Đông y xếp bướu cổ vào loại bệnh “ảnh – bướu”. Nếu phù tuyến giáp đơn thuần thì gọi là “khí ảnh – bướu khí”, cường năng tuyến giáp thì gọi là “nhục anh – bướu thịt”. U bướu có nhiều triệu chứng kèm theo. U tuyến giáp tương đương với “Hạch đàm”, do đàm khí uất kết, câm trị bằng cách “Sơ can giải uất, lý khí hoá hoá đàm”. Nếu do hoả uất thương âm thì xử phương “tư âm thành hoả, hoá đàm nhuyễn kiên”. Nếu có kèm triệu chứng “Tâm khí âm hư”, mạch đi Kết Đại, thì dùng thang “Bổ âm ích khí dưỡng huyết”. Nếu kèm chứng khí hư hạ giáng thì phải bồi bổ, ích. Nếu bệnh nhân dùng tia phóng xạ để điều trị làm cho âm hư, thiếu máu, phải bổ khí dưỡng huyết. Nếu kèm theo chứng thận suy thì trị bằng cách bổ thận dương.
- Bài 2:
– Bài thuốc: “Bình anh phúc phương” của Y sĩ Viện Văn hoặc thuộc bệnh viện Trường Xuân tinh Cát Lâm, Trung Quốc.
Công thức:
Huyền sâm 10g; Bạch đơn bì 10g; Đương qui 10g; Phục linh 10g; Sinh địa 10g; Triết bối mẫu 10g; Thanh bì 10g; Trần bì 10g; Tam lăng 10g; Nga truật 10g; Sơn thù nhục 10g; Sinh mẫu lệ 10g; Hạ khô thảo 12g; Ngoã lãng tử 15g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Kết quả lâm sàng: Đã trị 110 ca cường tuyến giáp trạng, kết quả: Khỏi bệnh hoàn toàn 38 ca, tiến bộ tốt 63 ca, có kết quả 6 ca, không chuyển biến 3 ca. Trong số có 77 ca sưng tuyến giáp, 54 ca lồi mắt. Chỉ dùng thuốc sau 3 – 6 ngày thì hầu hết các triệu chứng đều được cải thiện.
- Bài 3:
– Bài thuốc: “Viên kháng giáp” của Y sĩ Trương Triết Thần thuộc Học Viện Trung Y tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.
Công thức:
Quất hồng 100g; Chế bán hạ 150g; Phục linh 150g; Hải tảo 150g; Côn bố 150g; Thục mẫu lệ 150g; Triết bối mẫu 150g; Hạ khô thảo 200g; Tam lăng 100g; Hoàng được tử 50g; Cam thảo 50g; Hổ phách 10g; Chu sa 10g.
Cách làm và dùng: Tất cả đem tán bột mịn, luyện với mật ong làm hoàn, mỗi hoàng nặng 15g. Ngày nhai nuốt 2 lần, mỗi lần 1 hoàn.
Kết quả lâm sàng: Đã trị 125 ca, kết quả: 65 ca khỏi hẳn, rất tốt 24 ca, kết quả khả quan 23 ca, không chuyển biến 13 ca sau 2 tháng điều trị.
- Bài 4:
– Bài thuốc: “Phức phương kháng giáp cao” của Y sĩ từ Vĩnh Phổ thuộc trường Đại Học Y Khoa tỉnh Triết Giang, Trung Quốc.
Công thức:
Hoàng Kỳ 15g; Đảng sâm 15g; Mạch môn 15g; Bạch thược 15g; Hạ khô thảo 15g; Sinh địa 30g; Tử đan sâm 30g; Sinh mẫu lệ 30g; Tử tô tử 10g; Ngũ vị tử 10g; Chế hương phụ 10g; Bạch giới tử 06g.
Cách làm và dùng: Nếu lấy 2 – 3 lần nước, bỏ cặn, cô lại thành cao mềm. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 muỗng canh (tablespoon). Cứ mỗi liệu trình điều trị là 3 tháng.
Kết quả lâm sáng: Trị 50 ca, kết quả 20 ca khỏi bệnh 100%, 10 ca tiến triển rất tốt, 5 ca giảm rõ rệt, 5 ca mất hết triệu chứng, 8 ca giảm nhẹ, 2 ca bỏ cuộc.
- Bài 5:
– Bài thuốc “Sài hồ long mẫu thang” của Y sĩ Dụ kế thuộc Bệnh Viện Ninh HƯơng tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc
Công thức:
Sài hồ 10g; Bạch cương tâm 10g; Hoàng cầm 15g; Chế bán hạ 15g; Câu đằng 15g; Sinh thiết lạc 15g; Long cốt 30g; Sinh thạch cao 30g; Cát căn 20g; Cam thảo 05g; Chu sa 03g.
Sắc uống ngày 1 thang. Nếu táo bón, gia Đại hoàng 06g.
Kết quả lâm sàng: Điều trị 100 ca, khỏi bệnh hẳng 50 ca, có kết quả tốt, u giáp teo nhỏ, mắt hết lồi, mạch đi bình thường 41 ca, không chuyển biến 9 ca.
- Bài 6:
– Bài thuốc: “Kháng giáp thang” của Y sĩ Hạ Thiếu Nông và các cộng sự viên Bệnh viện Thử Quang, trực thuộc Học Viện Trung Y Thượng Hải, trung Quốc.
Công thức:
Hoàng kỳ 40g; Bạch thược 12g; Sinh địa 15g; Hạ khô thảo 30g; Hà thủ ô 20g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Gia giảm: Tỳ hư, bỏ sinh địa, gia thêm Hoài Sơn 18g, Bạch truật 12g, Thần khúc 06g. Tâm hoả vương, gia Hoàng liên 06g. Can hoả vượng, gia Long đờm thảo 06g.
Kết quả lâm sàng: Trị 98 ca, khỏi bệnh 61 ca, rất tốt 19 ca, khá tốt 8 ca, không chuyển biến 10 ca. Qua khảo sát, thấy vị Hoàng kỳ có tác dụng cải thiện chức năng miễn dịch, giảm triệu chứng lâm sàng và làm hạ T3, T4 huyết thanh.
- Bài 7:
– Bài thuốc: “Trương thị kháng giáp phương” của Y sĩ Trương Tuấn Văn thuộc Y học viện Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc.
- Công thức 7a:
Sinh thạch cao 30g; Mạch môn 15g; Hạ khô thảo 15g; Thiên hoa phấn 24g; Sinh địa 24g; Thạch hộc 12g; Đương qui 12g; Hoàng cầm 12g; Liên nhục 12g; Xuyên khung 10g; Hoàng liên 06g; Hoàng bá 10g; Ô mai 20g.
Sắc uống ngày 1 thang. Bài này trị tăng năng tuyến giáp thể “Vị Hoả”
- Công thức 7b:
Long đởm thảo 15g; Sinh địa 15g; Trân châu mẫu 15g; Sơn chi tử 10g; Đương qui 10g; Sài hồ 10g; Hoàng cầm 12g; Mạch môn 12g; Hạ khô thảo 12g; Huyền sâm 30g; Sinh long cốt 30g; Sinh mẫu lệ 30g; Địa cốt bì 30g.
Sắc uống ngày 1 thang. Bài này trị tăng năng tuyến giáp thể “Can uất hoá nhiệt”.
Gia giảm:
– Tim hồi hộp, gia Bá tử nhân 30g, Khổ sâm 15g, Ngũ vị tử 15g.
– Mồ hôi ra nhiều, gia long cốt 30g, Mẫu lệ 30g, Sinh Hoàng Kỳ 30g.
– Mất ngủ, gia Hắc táo nhân 15g, Long xỉ 15g, Chích viễn chí 15g, Ngũ vị tử 15g.
– Tuyến giáp phồng to, gia Hoàng dược tử 10g.
– Mắt lồi, gia Xuyên sơn giáp 12g, can địa long 12g.
Kết quả lâm sàng: Trị 32 ca, khỏi hẳn 11 ca, chuyển biến tốt 9 ca, có kết quả 11 ca, không kết quả 1 ca.
- Bài 8:
– Biện chứng Đông Y: Can uất khí kết, âm hư hoả vương
– Pháp trị: Dưỡng âm giải uất, nhuyễn kiên tán kết.
- Bài thuốc: “Dục âm thang gia giảm”
Công thức:
Bắc sa sâm 15g; Thiên môn 15g; Mạch môn 15g; Sinh địa 15g; Thiên hoa phấn 15g; Hải tảo 15g; Côn bố 15g; Ngũ bội tử 10g; Triết bối mẫu 10g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Gia giảm:
– Nếu bướu giáp sưng to, gia Hải phù thạch 15g.
– Chân tay run rẩy, gia Long cốt 15g, Mẫu lệ 15g.
– Thèm ăn, hay đói, gia Huyền sâm 15g, Sinh địa tăng lên 30g.
– Khát nước, gia Ô mai 15g, Thạch hộc 15g.
– Đi tiêu lỏng nhiều lần, gia Hoài sơn 30g.
– Khí hư, gia Thái tử sâm 15 – 30g.
– Đàn ông liệt dương, gia Dâm dương hoắc 15g.
– Can uất hoá nhiệt, gia Hạ khô thảo 15g.
Hiệu quả lâm sàng: Đã trị 34 ca, khỏi hẳn 18 ca, tiến triển tốt 13 ca không kết quả 3 ca. Lê Thị Nhi 34 tuổi, gần 4 năm qua cổ cứ to dần lên, cảm thấy bực bội, ra nhiều mồ hôi, tức ngực, tim hồi hộp, tay chân run, ăn nhiều vẫn đói, thân thể gầy róc, đi cầu lỏng.
Khám thấy bướu cổ độ II, mắt lồi ra, tim đập 106 lần/phút, chẩn đoán tăng năng tuyến giáp thể “Can uất khí kết kèm âm hư”. Cho dùng bài “Dục âm thang gia giảm”, gia thêm Huyền sâm 15g, Hải phù thạch 15g, Sinh long cốt 15g, Sinh mẫu lệ 15g, Thạch hộc 15g, Kiết cánh 10g. Uống tất cả 24 thang, tái khám thấy các triệu chứng đều giảm rõ, tuyến giáp teo còn độ I, mắt vẫn còn lồi, Giữ nguyên công thức, gia thêm Thái tử sâm 30g, cho uống tiếp 20 thang nữa, bệnh khỏi.
- Bài 9:
– Biện chứng Đông Y: Viêm tuyến giáp do thấp đàm ứ trệ, kinh mạch thiếu dương bị tắt, uất lâu hoá hoả.
– Pháp trị: Thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết hoá ứ, nhuyễn kiên tán kết.
- Bài thuốc: “Tam hải thang”
Công thức
Côn bố 15g; Kim ngân hoa 15g; Bồ công anh 30g; Địa đinh thảo 15g; Triết bối mẫu 15g; Hải phù thạch 12g; Liên kiều 12g; Kim quả lãm 10g; Thất diệp nhất chi hoa 06g; Tam lăng 06g; Nga truật 06g; Hạ khô thảo 10g; Nhũ hương 06g; Một dược 06g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Lê Mỹ Tú 37 tuổi, một tuần trước đây bỗng thấy tuyến giáp bên phải cổ bị sưng thành cục và kéo dài như dây chuỗi. Một bệnh viện chẩn đoán là “Viêm tuyến giáp trạng” nhưng xin điều trị bằng Đông y.
Khám thấy vùng cổ giáp với gáy bên phải sưng thành cục cở 6x,cm, xếp thành chuỗi dài, màu da không đổi. Bệnh nhân cảm thấy khó chịu, hít thở và nuốt khó khăn, về chiều phát sốt, sợ lạnh, không muốn ăn, tiêu tiểu bình thường, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch đi Tế Huyền.
Sau khi cho uống 5 thang “Tam hải thang”, khám lại thấy khối sưng biến mất, các triệu chứng cũng không còn, bệnh khỏi.
Bàn luận: Viêm tuyến giáp, Đông y xếp vào chứng “Ảnh lưu”. Có 5 ảnh và 6 lưu. Sách “Y Tông Kim Giám” nói: “Ảnh thì có dạng dây chuỗi, lưu thì theo khí mà tích tụ”. Lại nói “Ảnh phần lớn sinh ra ở vai, gáy, hai bên má, còn lưu thì có khắp nơi”. Trong bài dùng Hải tảo, Côn bố, Hải phù thạch có tính mặn, lạnh là đế nhuyễn kiên, làm mềm chất rắn, dùng Tam Lăng, Nga truật, Nhũ hương. Một dược để hoạt huyết, hoá ứ, giảm đâu, dùng Kim quả lãm để thanh phế lợi hầu họng, dùng Kim ngân hoa, Liên kiều, Thất diệp nhất chi hoa. Bồ công anh, Địa đinh thảo, Triết bối mẫu, Hạ khô thảo để thanh nhiệt giải độc, nhuyễn kiên tán kết. Bài thuốc này đã trị trong nhiều năm, kết quả khá mỹ mãn.
Bài thuốc Đông y trị bệnh cường giáp mang tính chất tham khảo độc giả không nên tự ý bốc thuốc uống khi cần phải gặp bác sĩ đông y để được thăm khám và kê toa. Quý khách có nhu cầu thăm khám và tư vấn miễn phí vui lòng liên hệ:
Thiện Minh Y Quán
ĐC: B14/12/9, Cây Cám, Tân Vĩnh Lộc, TPHCM
ĐT & Zalo: 0904 890 895 – Website: www.thienminhyquan.com