Đông y hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường
Tiểu đường là gì? Là chứng bệnh do rối loạn chuyển hoá chất bột đường (carbohydrate), chất đạm (protein) và chất béo (fat) với đặc điểm đường trong máu tăng cao (hyperglycemia) hơn mức bình thường và tiếp tục duy trì lâu dài không hạ xuống.
- Chất bột đường:
Khi ta nhai một miếng cơm hay một mẫu bánh mì, tức là bột đã chín, ít lâu sau sẽ cảm thấy ngọt nhờ tác động của dịch vị trong miệng chuyển hoá bột thành chất đường. Tương tự như thế, trong bộ máy tiêu hoá cũng có một cơ quan giống như tuyến nước bọt, tiết ra một chất đặc biệt nhằm chuyển hoá bột thành đường, đó là tuỵ tạng hay lá mía (pancreas) nằm ẩn phía sau dạ dày.
Đường có vị ngọt là chuyện đương nhiên, nhưng về sau mặt khoa học, đường được chia thành nhiều loại khác nhau: Đường mía (saccharose), đường trái cây (fructose), đường trong sữa tươi (lactose). các loại đường này tuy ngọt nhưng cơ thể không “xài” liền được mà phải chuyển đổi thành một loại đường thống nhất mang tên là đường Glucose. Ngoài ra, đường có thứ chuyển hoá nhanh, như đường mía, y học gọi ngắn là đường mau, có thứ chuyển hoá chậm, như mật ong, thì gọi là đường chậm.
- Nhiên liệu:
Con người sống được, ngoài hấp thu khí trời, còn phải kể đến một thứ nhiên liệu cực kỳ quan trọng là thực phẩm hay thức ăn. Nhiên liệu gồm 3 nguồn: Chất bột đường, khoa học gọi là Glucide, chất đạm như thịt, cá, trứng, khoa học gọi là protide hay protein và chất béo như mỡ, dầu, khoa học gọi là lipid.
Muốn sự sống được duy trì và hoạt động, cơ thể phải thực hiện việc chuyển hoá các nguồn nhiên liệu nói trên thành năng lượng (enegry). Tiến trình chuyển hoá này gọi là “đốt”. Nhờ đốt, cơ thể mới ấm nóng và có sức để cử động. Tuy nhiên, cơ thể phải tự điều hoà chất glucide, nếu mất cân bằng sẽ gây ra bệnh tiểu đường.
- Hệ quả:
Sau một thời gian mắc bệnh tiểu đường, tuỳ thuộc vào điều kiện bệnh lý, một số hiện tượng sẽ xuất hiện với 3 dấu hiệu khá đặc trưng:
– Nước tiểu có vị ngọt như đường.
– Khát nhiều, uống nhiều, đói nhiều.
– Nếu không được điều trị kịp thời và đúng mức, bệnh tiểu đường sẽ gây biến chứng dẫn tới nguy cơ mắc bệnh.
+ Tim mạch: Xơ vữa động mạch, tai biến mạch máu não, liệt bán thân, nhồi máu cơ tim.
+ Bệnh thận: Viêm bể thận, viêm cầu thận, liệt thận.
+ Bệnh phổi: Lao phổi khó phát hiện.
+ Thần kinh: Tê rần, mất cảm giác từng khu vực.
+ Nhiễm trùng: Viêm da, ngứa lở không lành, hoại tử.
+ Bệnh nặng: Gây hôn mê và tử vong.
- Theo Y học hiện đại
- Nguồn gốc
Bệnh tiểu đường, còn gọi là bệnh “Đái tháo đường”, tên khoa học Diabetes mellitus. Cũng cần phân biệt với bệnh “Đái tháo nhạt” (Diabetes ínipidus) ít gặp trên lâm sàng. Hai bệnh này hoàn toàn khác nhau, tránh nhầm lẫn.
Chữ “Diabetes mellitus” có nguồn gốc tiếng La tinh, Hy Lạp. Diabetes có nghĩa là “Xuyên qua”, mellitus có nghĩa là “mật ong”. Từ nguyên phản ánh ý nghĩa người nào mắc bệnh tiểu đường thì nước tiểu có vị ngọt như đường.
- Các loại bệnh tiểu đường
- Tiểu đường được chia thành 2 loại chính
– Tiểu đường loại 1 (type 1), hoàn toàn phụ thuộc vào insullin từ bên ngoài truyền vào cơ thể vì tế bào tiết ra chất insullin nội sinh nằm bên trong tuỵ tạng còn gọi là lá mía (pancreas) bị phá hỏng, không còn hoạt động nữa. Tại sao bị phá hỏng? Theo Bá sĩ R.D.G Leslie cho biết, một phần nguyên nhân do chứng viêm nặng, bị nhiễm khuẩn hoặc bệnh béo phì gây ra. Tiểu đường loại I thường gặp nhất ở tuổi thiếu niên và thanh niên, ít gặp ở tuổi cao niên. Tỷ lệ mắc bệnh chiếm khoảng 0.25%.
– Tiểu đường loại II (type II), không phụ thuộc vào insullin, phát sinh ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở những người trên 40 tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh chiếm khoảng 4%. Cái may của tiểu đường loại II là tế bào tiết insullin còn hoạt động, chưa bị phá huỷ hoàn toàn. Nhờ vậy, tuy tạng vẫn sản xuất được một ít insullin, phần thiếu hụt có thể bổ sung thêm từ bên ngoài.
- Làm sao phân biệt loại I và II?
Một số lập luật cho rằng, nếu mắc bệnh tiểu đường mà không phải chích insullin, chỉ uống thuốc thôi thì xếp vào tiểu đường loại II. Nhưng có trường hợp bệnh nhân thuộc tiểu đường loại II lại buộc phải chích insullin thì sao? Điều này cho thấy không thể dựa vào yếu tố có lệ thuộc insullin hay không để phân biệt tiểu đường loại I hay loại II. Tuy nhiên, căn cứ vào các đặc điểm sau đây có thể xếp bệnh nhân vào nhóm tiểu đường loại I:
– Thường xuyên dùng insullin để trị bệnh tiểu đường.
– Khi phát bệnh, tuổi của bệnh nhân dưới 40 tuổi.
– Giảm cân nhanh, nước tiểu xuất hiện chất acetone.
– Có cha, mẹ, anh chị em bị tiểu đường và dùng insulin.
- Đường glucose là gì?
Như trên đã đề cập, glucose là một loại đường đơn, công thức C6H12O6 thường xuất hiện dưới 2 dạng: Thứ nhất, glucose tự do, rất hiếm, chỉ tìm thấy nhiều nhất trong quả nho, tiếp theo là trong mật ong thiên nhiên và một vài loại quả chín ngọt. Thứ hai, glucose được tạo thành bởi cả 2 loại đường mía (sucrose) và tinh bột (starch) sau khi tiêu hoá trong dạ dày.
Glucose chứa trong cơ thể ở dạng glycogen, nồng độ trung bình được giữ trong khoảng 95mg/dl – 120mg/dl do tác động bởi nhiều hormone, chủ yếu là insulin và glucagon (glucagon cũng là hormone do tuỵ tạng tiết ra nhưng lại làm gia tăng mức đường huyết, ngược với chức năng của insulin). Nếu mức glucose máu tăng cao hơn mức bình thường, tới khoảng 130mg/dl hoặc cao hơn, sẽ có triệu chứng của bệnh tiểu đường.
- Insulin là gì?
Insulin là một loại protein hormone được sinh ra trong tuyến tuỵ, còn gọi là tuỵ tạng (pancreas) do các tế bào bê – ta (beta) của tiểu đảo Langerhans điều hành, đóng vai trò cân bằng đường huyết.
Khi nồng độ đường trong máu cao sẽ kích thích sự phân tiết insulin nhầm “mở cửa” các tế bào gan, bắp thịt và chất béo để đẩy đường (glucose) và dữ trữ biến ra năng lượng. Nếu vì một lý do trục trặt đó dẫn tới tình trạng thiếu insulin sẽ mắc bệnh tiểu đường.
Khi chất insulin thiếu tác động kém có thể dẫn tới một số vấn đề không tốt như:
- Đường huyết tăng cao vì lượng glucose dự trữ trong các mô chưa chuyển thành năng lượng.
- Người bệnh giảm cân vì thiếu insulin biến đổi glucose thành năng lượng nên cơ thể mất khả năng dung nạp lượng đường và chất béo tồn trữ.
- Nước tiểu có lẫn đường vì thận không đủ khả năng thanh lọc hết số đường glucose thặng dư trong máu.
- Đường trong máu (đường huyết)
Làm sao biết có bệnh tiêu đường hay không? Cách tốt nhất là thử nước tiểu và thử máu. Tuy nhiên, thử máu là phương pháp đáng tin cậy nhất.
Người không có bệnh tiểu đường, nồng độ đường huyết thường nằm ở mức tối thiểu 95mg/dl và tối đa 120mg/dl.
Riêng tại Hoa Kỳ, trước kia cho phép tối đa là 139mg/dl, nhưng gần đây đã hạ xuống còn 130mg/dl vì thấy không an toàn.
Người có bệnh tiểu đường, nồng độ đường huyết thường cao hơn 129 mg/dl. Dĩ nhiên mức đường trong máu luôn thay đổi, tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố, như: Nguồn thực phẩm hoặc khối lượng phẩm ăn vào, thời gian chuyển hoá thực phẩm thành đường, dung lượng insulin sản xuất, có hay không có vận động sau bữa ăn… Nói chung, trước ăn thì đường huyết xuống thấp, ăn xong đường huyết sẽ lên cao.
- Đường trong nước tiểu (đường niệu)
Đường huyết lên cao tới mức nào thì mới thấy đường xuất hiện trong nước tiểu? Theo Bác sĩ R. D. G Leslie, phần đông khi đường huyết nằm trong giới hạn cho phép thì nước tiểu không thấy đường xuất hiện, trừ một vài trường hợp đặc biệt ở những người có bộ phận lọc kém do di truyền.
- Công thức cân bằng đường huyết
Muốn đường huyết luôn giữ mức quân bình, chúng ta cần quan tâm đến 5 yếu tố căn bản:
- Chọn thực phẩm thích hợp, ít tinh bột, đường, các loại thịt đỏ.
- Thời gian giữa 2 bữa ăn phải cách xa nhau 3 – 4 tiếng đồng hồ.
- Nên tập thể dục, vận động từ 45 – 60 phút sau bữa ăn chiều.
- Nhớ uống thuốc hoặc chích insulin đúng giờ, đúng liều lượng.
- Giữ gìn sức khoẻ và tâm thần ổn định, đề phòng đau ốm, căng thẳng.
- Tại sao phải chích insulin?
Sản phẩm insulin bán trên thị trường hiện nay có thể được chiết xuất từ tuỵ tạng động vật (gồm bò, heo) hoặc điều chế trong phòng thí nghiệm. Tuy cấu tạo hơi khác nhau nhưng đồng một tác dụng vì insulin là một loại chất đạm (protein) dễ bị phá huỷ ở dạ dày nên phải chích thẳng vào máu mới có hiệu quả.
- Có 2 thể insulin
– Thể dung dịch trong suốt, là loại insulin tác dụng nhanh, hiệu quả nhanh. Sau khi chích độ 30 phút, thuốc sẽ có tác dụng nhanh, hiệu quả nhanh. Sau khi chích độ 30 phút, thuốc sẽ có tác dụng và kéo dài khoảng 6 tiếng đồng hồ.
– Thể dung dịch đục mờ, là loại insulin tác dụng chậm, xâm nhập vào máu chậm nên có thể kéo dài hiệu lực từ 6 đến 12 tiếng đồng hồ.
Các nhà điều trị có thể pha trộn cả 2 loại insulin tác dụng nhanh và chậm thành một thứ insulin hỗn hợp nhằm duy trì mức insulin không để thiếu hụt vào giữa hai bữa ăn và ban đêm, mục đích giữ cho đường huyết ổn định trong thời gian ngừng ăn uống.
- Nguyên nhân:
Có nhiều tác nhân ảnh hưởng đến việc tiết xuất insulin dẫn tới nguy cơ bị bệnh tiểu đường. Sau đây là một số tác nhân thường gặp:
– Thiếu insulin hoặc tác dụng yếu.
– Bệnh tự miễn tịch (autoimmune díease).
– Nhiễm khuẩn (viral infections).
– Bệnh béo phì (obesity).
– Căng thẳng tâm – sinh lý.
– Phụ nữ thời kỳ mang thai.
– Dùng thuốc gây ức chế insulin.
Tiểu đường là một loại bệnh mãn tính, tiến triển chậm ở thời kỳ đầu nên rất khó phát hiện. Tiến trình bệnh lý có thể chia làm 2 thời kỳ:
- Thời kỳ chưa có triệu chứng:
– Phần đông bệnh nhân trên 40 tuổi, cơ thể thường mập mạp.
– Có thể bị cao huyết áp, nổi mụn nhọt, có bệnh động mạch vành.
– Có thể bị đục nhân mắt, tinh thần và thể lực bình thường.
– Tình cờ phát hiện đường niệu, đường huyết cao khi đi khám sức khoẻ.
- Thời kỳ có triệu chứng:
– Khát nước nhiều, uống liên miên vẫn không đã khát.
– Tiểu nhiều, tiểu liên miên, càng uống nước càng đi tiểu.
– Mau đói, ăn nhiều vẫn không no, không lên cân.
– Sụt cân thê thảm, cũng có người lại tăng cân vùn vụt.
– Mệt mỏi, da khô da mất nước, da tróc vảy, sần sùi.
– Ngứa toàn thân, nhọt lở, viêm da, đâu chi lở loét.
– Mắc bệnh lao phổi nhưng uống thuốc chống lao không lành.
– Đục nhân mắt, chân phù, đau nhứt, tê dại tay chân.
– Đàn ông liệt dương, phụ nữ bị viêm ngứa âm đạo.
– Chán ăn, buồn nôn, đau bụng, bệnh nặng gây hôn mê, chết.
- Theo Đông y học
Đông y xếp bệnh tiểu đường vào chứng “Tiêu khát” vì dựa vào các biểu hiện ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều mà đặt tên. Chữ “Tiêu” có hàm nghĩa là “Đốt cháy” và vì bị đốt cháy nên người bệnh cảm thấy khô khát dữ dội.
Về gốc bệnh, trong các y văn cổ xưa có nhấn mạnh đến căn nguyên do “phong sự quá độ, thần khí tiêu hao” nhưng luận thuyết này khó bề lãnh hội vì tính chất khá bao quát. Mãi đến triều đại Nhà Tuỳ, Trung Hoa, sách “Sào Thị bệnh nguyên luận” của Sào Nguyên Phương mới chứng minh được nguồn gốc bệnh một cách rõ nét, phù hợp với lý giải của Y học hiện đại “Tiêu khát là hậu quả do Tỳ khí nhọc mệt (chỉ hệ thống tiêu hoá, chủ yếu lá mía – pancreas – hoạt động kém). Ngũ vị (ngọt, đắng, chua, cay, mặn) ăn vào chứa ở Vị (dạ dày), tiếp theo Tỳ vận hành tinh khí tràn ra để tiêu hoá. Khi Tỳ khí suy, không vận hành, sẽ dẫn tới bệnh Tiêu khát”.
Tiểu đường chủ yếu thuộc thể “âm hư nội nhiệt” với các triệu chứng nóng hầm hập trong người, cơ thể phần nhiều gầy ốm hơn tăng cân, khát nước, ăn nhiều, tiểu nhiều. Nội Kinh nói “âm hư khó bổ”, nhầm ám chỉ một chứng bệnh nội thương không dễ gì trong một sớm một chiều mà trị lành được.
- Điều trị:
Đông Y có 2 phương pháp trị bệnh Tiểu đường:
– Tiêu: Trị tiêu là triệu chứng, trị ngọn, dùng giải pháp ức chế tình trạng nước tiểu có chất đường. Bao giờ nước tiểu sạch đường thì coi như đạt hiệu quả.
– Bản: Trị bản là giải pháp phục hồi chức năng của tạng Tỳ, trị gốc, giúp Tỳ khí tái hoạt động để tự điều hoà chất insulin, cân bằng đường huyết.
Thực tế lâm sàng, kinh qua nhiều thế kỷ, Đông y đã cống hiến nhiều bài thuốc trị tiểu đường rất giá trị, từ đơn giản đến phức tạp, từ ăn uống kiêng cử đến dược thảo tổng hợp, cái nào cũng mang lại ít nhiều thành quả. Sau đây xin giới thiệu một số phương pháp điển hình của Đông Y:
- Dinh dưỡng
Trong các phương pháp trị bệnh tiểu đường, chế độ ăn uống đóng vai trò then chốt. Nếu chỉ trông cậy vào tác dụng của thuốc, xem nhẹ việc kiêng cử thì tiến trình điều trị chắc chắn thất bại.
Theo lời khuyên của các nhà điều dưỡng, người có bệnh tiêu đường nên chọn lựa những loại thực phẩm có ít chất đường bột (carbohydrates) nhất. Sau đây là 6 nhóm thực phẩm căn bản, sử dụng theo tiêu chuẩn từ trên xuống:
- Nhóm rau xanh: Đây là nhóm thực phẩm ít chất đường nhất, gồm có:
– Cải bẹ xanh: 4 – 5 cây.
– Bầu, bí xanh: 1 khoanh dài 10cm.
– Bắp cải: 3 – 4 bẹ.
– Măng tre: 100g.
– Đậu đũa: 6 -10 cọng .
– Cà chua: 4 – 5 quả.
– Rau lạng: 1 bó.
– Giá đậu xanh: 1 tô.
– Su su: 1 quả.
– Cà rốt: 2 – 3 củ.
- Nhóm trái cây tươi: Cung cấp chừng 10g glucide, rất ít protein và lipid, gồm có:
– Loại ít ngọt nhất: Strawberry: 6 -10 quả; Mận: 4 – 5 quả ; Điều: 2 – 3 quả.
– Loại chứa 1% đường: Cam: 1/4 quả; Quýt: 1 quả; Bưởi: 4 múi; Khế: 2 – 3 quả nhỏ.
– Loại chứa 10 – 22% đường: Cóc: 1 quả; Măng cục: 1 quả; Dứa: 1 miếng nhỏ; Xoài: 4 quả; Chuối sứ: 1 quả; Vú sữa: 4 quả; Chôm chôm: 2 quả.
- Nhóm sữa (không có đường): Cung cấp 10g chất đường, 7g chất đạm, 140 calories, gồm có:
– Sữa bò tươi: 2/3 ly lớn.
– Sữa dê: 2/3 ly lớn.
– Sữa bột: 4 muỗng cà phê pha với 1 tách nước sôi.
– Sữa đậu nành: 2/3 ly lớn.
- Nhóm ngũ cốc: Cung cấp 10g tinh bột, 1g chất bột, ít nhất béo, 44 calories, gồm có:
– Cơm (gạo xay thô): 1/4 chén.
– Bắp hạt: 1/5 trái.
– Xôi: 1/3 chén.
– Bún: % chén.
– Bánh cuốn: % chén.
– Mì sợi: 1/8 chén.
– Bánh mì: 1 lát mỏng 1cm.
– Khoai lang: % củ.
– Khoai mì: 1 khúc dài 6cm.
- Nhóm chất đạm: Rất ít hoặc không có chất đường (ngoại trừ thịt đỏ như bò, cừu), gồm có:
– Thịt heo, gà, vịt, bồ câu, chim các loại.
– Cá, tôm, cua, mực, sò ốc.
– Trứng gia cầm: gà, vịt, ngỗng, chim.
– Đậu nành và sản phẩm làm từ đậu nành.
- Nhóm chất béo: Chứa toàn chất béo, gồm có:
– Mỡ đỏ, mỡ heo, mỡ gà, mỡ cừu.
– Dầu thảo mộc: Dầu mè, dầu dừa, dầu đậu phộng, dầu cải.
Trong 6 nhóm vừa kể, người bị bệnh tiểu đường được ăn tự do nhóm 5 và 6 nhưng cũng phải đề phòng chứng cholesterol huyết có thể tăng cao. Riêng hai giáo sư Michael Muray và Joseph Pizzomo thực vật, hàm lượng đường cao hay thấp tuỳ thuộc vào từng nhóm theo bảng phân tích sau đây:
- Nhóm đường (sugars)
– Đường mạch nha (maltose) = 105
– Đường Glucose = 100
– Đường mật ong (honey) = 75
– Đường mía (surcose) = 60
– Đường trái cây (fructose) = 20
- Nhóm trái cây (fruits)
– Nho khô (raisin) = 64
– Chuối (bananas) = 62
– Nước cam vắt (oranges juice) = 46
– Cam chín (oranges) = 40
– Táo (apples) = 39
- Nhóm củ, rễ (roots)
– Khoai tây nướng (potato, baked) = 98
– Khoai tây nấu (potato, boiled) = 70
– Củ dền đỏ (beets) = 64
– Cà rốt nấu (carrot, cooked) = 36
– Cà rốt tươi (carrot, raw) = 31
- Nhóm ngũ cốc (cereals)
– Gạo nấu (rice, puffed) = 95
– Bắp (ngô) nấu (cornflakes) = 80
– Bánh mì (bread) = 72
– Cám (bran) = 51
– Bột yến mạch (oatmeal) = 49
– Các loại mì sợi, mì ống (pasta) = 45
- Nhóm rau đậu (legumes)
– Đậu Hà Lan (peas) = 39
– Các loại đậu khác (beans) = 31
– Đậu lăng (lethils) = 29
- Các loại khác
– Kem (ice cream) = 36
– Sữa (milk) = 34
– Xúc xích (sausages) = 28
– Các loại hạt (nuts) = 13
- Các trị liệu đơn giản
Canh lách heo: Mỗi ngày dùng 1 cái lách heo, thêm 20g râu bắp khô, nấu lấy nước uống, có thể ăn luôn lách heo cũng được. Theo kinh nghiệm sau 3 – 5 ngày, nước tiểu sẽ sạch đường. Nếu chưa như ý, nấu uống thêm 1 – 2 ngày nữa thì thấy kết quả.
Giải thích: Dùng lách heo là ứng dụng thuật “Đồng tính trị liệu” của Đông y. Trong lách heo có chứa insulin, dùng lách heo để trị bệnh cho người thiếu insulin là điều rất hợp lý. Trong các bữa ăn của người Trung Hoa thường có món lách heo: Lách heo nấu canh cải, lách heo xào đậu, lách heo nấu với củ năn đều nhằm vào việc Kiện Tỳ, lợi thấp, bổ dưỡng.
Nước sinh địa: Mỗi ngày dùng trung bình 30 – 40g củ Sinh địa hoàng (mua ở hiệu thuốc Bắc), xắt lát mỏng, nấu lấy nước uống thay trà, dùng liên tục không được gián đoạn. Liều lượng sinh địa không nhất định, có người dùng tới 100g, trong khi người khác chỉ cần 30g là đủ. Sau vài tuần lễ hoặc lâu hơn, nếu thử nước tiểu mà thấy sạch đường là đạt yêu cầu. Cân nhất là phải theo dõi đường trong nước tiểu để quyết định liều lượng Sinh địa cho thích hợp.
Giải thích: Sinh địa hoàng lá củ Sinh địa, còn tươi hoặc phơi khô, chưa qua công đoạn sao tẩm hay nấu chín thành Thục địa. Theo kinh nghiệm Đông y, củ sinh địa có tác dụng ức chế đường trong nước tiểu, còn theo khảo sát của Y học hiện đại thì Sinh địa có khả năng kiềm hãm chất đường bột (carbohydrates) không cho phân huỷ thành đường glucose. Vì vậy, khi uống nước Sinh địa, có thể ăn cơm hay ăn thêm chút ít đồ ngọt cũng không hại gì.
Lá ổi: Đông y gọi là Phan Thạch Lựu, tên khoa học Psidium guỵava, thuộc họ Sim (Myrtaceae). Chọn lá ổi non hoặc hơi già, khoảng 1 – 2 kg, rửa sạch, chia làm 2 phần đều nhau. Một phần nấu lấy 2 lần nước, cô thành cao. Một phần lá đem sấy khô, tán thành bột mịn, trộn với nước cao ổi, quết thật đều. Cuối cùng, vò viên trong hoặc ép thành viên dẹp, mỗi viên nặng 3g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 viên trước bữa ăn 1 – 2 giờ. Có thể thay bằng 250g quả ổi non, xắt lát, nấu với 1 lít nước (32 ounces). Khi cạn còn khoảng 4 lít (16 ounces), cho thêm 10g La hán quả vào, tiếp tục nấu sôi vài dạo là được. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 150ml (1/2 chén). Uống trước bữa ăn 1 giờ.
Giải thích: Về phương diện y học, trong lá ổi non hoặc quả non có chứa Pectin, chất tannin pyrogalic, psiditanic acid và vitamin C. Về kinh nghiệm dân gian, lá ổi hay trái ổi tươi có tác dụng làm hạ đường trong máu, làm hạ huyết áp, giảm mức cholesterol thặng dư trong máu.
Bí trắng: còn gọi là bí đao, bí xanh, Đông y gọi là “Đông qua” mỗi ngày dùng 100g, bí đao nấu lấy nước uống thường xuyên. Bí đao có công năng lợi tiểu, làm giảm khát nước trong bệnh tiểu đường, trị chứng sốt âm, chân tay phù thũng.
Cần tây (celery): 100g, giả nát vắt lấy cốt hoặc dùng máy xay ly tâm ép lấy nước cốt uống ngày 2 lần lúc bụng đói. Theo nhà nghiên cứu Harvey Diamond Hoa Kỳ cho biết, trong rau cần tây có chứa một chất alkaline có tác dụng giống như insulin nên dùng trị tiểu đường rất hiệu quả.
Củ cải trắng 500g, bào ngư khô 50g: Nấu ăn ngày 2 lần, liên tiếp 15 – 20 ngày thì đường huyết sẽ hạ xuống, cơ thể cảm thấy nhẹ nhàng.
Hoa đậu vàng trắng 30g, Mộc nhỉ đen 30g: Đem tán bột mịn, ngày uống 3 lần, mỗi lần 3 – 5g.
Cá trắm có 500g, Chè xanh 10g: Mổ bụng cá, bỏ ruột, nhét chè xanh vào, đem chưng chín (không thêm gia vị). Ăn hết trong ngày.
Kén tằm: Là vỏ con tằm sau khi người ta lấy hết chất liệu để làm tơ. Mỗi ngày nấu uống 50 – 100g. Theo kinh nghiệm của y sĩ Quách Bá lương, Trung Quốc, vỏ kén tằm hoặc nước ươm tằm có công hiệu làm hạ đường trong máu mà không gây nguy hại tới sức khoẻ. Thật là một món thuốc dân gian kỳ diệu ít người biết tới.
Khổ qua (Bitter melon, bitter gourd, balsam pear): còn có tên là mướp đắng, lương qua, cẩm lệ chi, lại bồ đào, tên khoa học momordica charantia, thuộc họ Bầu bí Curcurbitacene. Khổ qua tươi có tác dụng làm giảm đường trong máu nhờ chứa một vài thành phần kháng đường huyết. Các nhà khoa học khám phá trong khổ qua có charantin là chất làm giảm glucose – huyết (hypoglycemia) và Momordica là chất có tác dụng giống như insulin (polypeptide – P) dùng để chích cho người bị tiểu đường thuộc nhóm I (lệ thuộc insulin).
Liều dùng trung bình: 2 ounces nước cốt khổ qua tươi (tương đương 60ml hay % cup), ngày 1 – 2 lần. Theo nhiều cuộc nghiên cứu ghi nhận, nước khổ qua tươi nguyên chất cho kết quả tốt hơn khi phơi khô, chỉ phiền là vị đắng khiến nhiều người nãn lòng.
Cỏ ca ri (Fenugreek) là một cây thảo, cao khoảng 80cm, có hoa màu vàng nhạt, mọc nhiều ở miền Bắc Phi Châu và những quốc gia nằm dọc theo miền đông vùng Địa Trung Hải (Mediterranean), về sau được di thực vào Ấn Độ rồi trở thành nguồn thực phẩm truyền thống của nước này qua sản phẩm bột cà ri.
Fenugreek, tên khoa học Trigonella foenum – graecum, thuộc họ Cánh bướm (Fabaceae), thường dùng hạt để chế biến thực phẩm hoặc làm thuốc. Trong hạt cỏ cà ri, các nhà nghiên cứu tìm thấy các chất: Volatile oil, alkaloids (gồm Trigoneline), saponins (chủ yếu diosgenin), islavonoids, mucilage (khoảng 27%), protein (chừng 25%), vitamin A, B1, C và một ít khoáng chất (minerals).
Hạt Fenugreek có công năng làm giảm mức đường trong máu, hiện nay được nhiều công ty dược thảo Hoa Kỳ trọng dụng để chế thuốc trị bệnh tiểu đường. Mặt khác, Fenugreek còn có tác dụng vừa làm tăng mức cholesterol tốt (HDL) lên đồng thời hạ chỉ số cholesterol tổng quát xuống và ngăn ngừa luôn cả bệnh tim.
Liều dùng: Ngày 2 lần, mỗi lần trung bình 50g bột Fenugreek chiết xuất.
Củ hành tây (onion): Tên khoa học Allium cepa, vốn là một loại dược phẩm quen thuộc, đã được các dân tộc Châu Âu, Châu Á và Trung Đông sử dụng trị bệnh tiểu đường từ 2 – 3 nghìn năm trước Công Nguyên.
Theo Tiến sĩ Micheal Muray Hoa Kỳ cho biết, tác dụng chính của củ hành tây là nhờ hợp chất lưu huỳnh – allyl propyl disulphide (APDS) – làm hạ đường huyết mà không di hại tới insulin. Nhờ kết quả này, insulin tự do cũng tăng lên.
Liều dùng: 125mg/Kg trọng lượng cơ thể, ngày 2 – 3 lần.
Nước sinh tố tươi (fresh juices): Theo bác sĩ Jethro Kloss, Hoa Kỳ, hằng ngày dùng nước ép rau quả tươi chẳng những làm hạ đường trong máu mà còn giúp nâng cao sức khoẻ nhờ chúng tẩy rửa chất độc, chống táo bón, thúc đẩy các cơ quan hoạt động tốt hơn. Sau đây là công thức:
Cà rốt (carrot) 3 – 4 củ; Táo Nhật (Fuji apple) 1 quả; Dưa leo (cucumber) 1 quả; Khổ qua non (bitter melon) 1 quả; Cần tây (celery) 3 bẹ; Ớt bị (blue bell) 1 quả; Củ dền đỏ (beet) 4 củ.
Dùng máy xay ly tâm (extractor) ép lấy nước cốt, uống ngay lúc bụng đói, ngày 2 lần. Đây là loại nước sinh tố tổng hợp rất bổ dưỡng, có chứa những phân thử giống như máu và insulin. Theo kết quả nghiên cứu, tiểu đường loại I và loại II đều giảm đáng kể.
- Dược thảo tổng hợp
- Bài “Cam thược giáng đường phương” của y sĩ Vương Tông căn thuộc Trường Đại học Y khoa Thượng Hải, Trung Quốc.
Bạch thược 5 phần; Cam thảo 5 phần.
Nấu lấy 2 phần nước, cô thành sao đặc, rót vào bình, giữ trong tủ lạnh dùng dần. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 150mg (1/2) chén. Nếu muốn dùng theo dạng thuốc nấu, liều lượng mỗi ngày tương đương với Bạch thược 40g, Cam thảo 8g, cũng chia uống 3 lần. Mỗi liệu trình điều trị 3 tháng.
Kết quả lâm sàng: Đã trị 180 ca bệnh tiểu đường, kết quả tốt 133 ca, không chuyển biến 47 ca, đạt hiệu quả 74.2%
- Bài “Thắng cam phương” của y sĩ Lý Thọ thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc
Sơn thù nhục 30g; Ngũ vị tử 20g; Ô mai 20g; Thương truật 20g.
Nấu uống ngày 1 thang trước 3 bữa ăn sáng, trưa và chiều.
Kết quả lâm sàng: Đã trị 110 ca tiểu đường, kết quả 94 ca, đạt tỷ lệ thành công 85.4%.
- Bài “Tiêu khát bình phương” của y sĩ Trình ích Thọ thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc
Sinh Hoàng kỳ 30g; Nhân sâm 12g; Thiên hoa phấn 12g; Tri mẫu 12g; Cát căn 12g; Thiên môn đông 12g; Ngũ vị tử 06g; Sa uyển tử 12g; Đan sâm 16g.
Nấu uống ngày 1 thang, liên tiếp 3 tháng.
Kết quả lâm sàng: Đã trị 333 ca tiểu đường, trong đó 331 ca có chỉ số đường huyết cao hơn 150mg/dl. Sau 1 tháng điều trị, hơn 50% bệnh nhân giảm đường niệu. Sau 2 tháng hơn 64% bệnh nhân giảm đường huyết. Sau 3 tháng, 270 ca đường huyết hạ xuống mức trung bình, 63 ca không chuyển biến. Tỷ lệ thành công đạt 80.96%.
- Bài “Thanh hiên ẩm” trong “Thiên gia diệu phương”.
Thông thảo 10g; Ty bà diệp 30g; Qua lâu nhân 12g; Đông qua nhân 20g; Đậu quyển 12g; Thuỷ vĩ hành 30g; Ty qua lạc 08g; Hạnh nhân 12g; Tang chỉ 30g; Ý dĩ nhân 30g; Hoạt thạch 30g; Bạch cúc hoa 10g; Xa tiền thảo 30g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Lý Thị Diệu 51 tuổi, toàn thân phù nề, sốt khát nước, đổ mồ hôi, mỗi ngày uống trên 12 lít nước, ăn nhiều, tiểu nhiều, đau mỏi toàn thân, mệt nhọc. Kiểm tra đường huyết áp, đường niệu +++, chuẩn đoán bệnh tiểu đường.
Sau khi uống 3 thang “Thanh hiên ẩm”, hiện tượng khát nước giảm. Cho uống thêm 6 thang nữa, các hiện tượng khát nước và tiểu nhiều giảm rõ, đường niệu còn +. Lại cho dùng tiếp 10 thang nữa rồi 10 thang nữa, các triệu chứng biến mất, kiểm tra đường huyết bình thường (104mg/dl), sức khoẻ tốt.
Bàn luận: Bài “Thanh hiên ẩm” còn có thể trị cả bệnh viêm khớp xương, phế khí thủng, thuỷ thủng, phế lao, ho lâu ngày cũng thu được hiệu quả.
- Bài “Gia vị ngọc dịch thang” trong “Thiên gia diệu phương”
Hoài sơn 30g; Sinh Hoàng kỳ 15g; Tri mẫu 15g; Kê nội kim 06g; Cát căn 15g; Thiên hoa phấn 10g; Sơn thù nhục 15g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Trần Anh Nam, 50 tuổi, có tiền sử bị tiểu đường đã 3 năm nhưng không phát giác để được điều trị sớm. Có triệu chứng ăn nhiều mau đói, nước tiểu có vị ngọt như đường, tiểu tiện nhiều lần, miệng khô, môi nức nẻ, sắc mặt xanh sao, tay chân yếu ớt.
Sau khi cho dùng 5 thang “Gia vị ngọc dịch thang”, các triệu chứng giảm rõ. Lại dùng thêm 25 thang nữa, mọi hiện tượng xấu gần như biến mất. Giữ nguyên phương thang, cho uống tiếp 30 thang nữa, bệnh khỏi.
- Bài “Tiêu chỉ khát thang” trong “Thiên gia điệu phương”
Sinh địa 30g; Hoài sơn 30g; Thiên hoa phấn 20g; Thạch hộc 20g; Tri mẫu 20g; Bắc sa sâm 15g; Mạch môn 15g; Trạch tả 12g; Ngũ vị tử 06g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Dương Xuân Sơn, 53 tuổi, có triệu chứng khát nước, uống nhiều ăn nhiều, chóng đói, đi tiểu liên miên, uống vào bao nhiêu đi tiểu bấy nhiêu, bệnh kéo dài đã hơn 1 năm.
Khám thấy Tam tiêu (Thượng tiêu, Trung tiêu, Hạ tiêu) đều có bệnh. Xét nghiệm máu thấy đường huyết cao, thử nước tiểu thấy đường niệu +++, đầu váng, mệt nhọc, không còn khả năng làm việc. Đã từng trị bằng Tây y với D860 và insulin, chỉ đỡ tạm thời, hết thuốc bệnh trở lại như cũ.
Sau khi cho uống liên tiếp 40 thang “Tiêu chỉ khát thang”, xét nghiệm đường huyết hạ một nửa, đường niệu giảm còn +, ăn uống khá hơn, đi làm bớt mệt mỏi. Khuyên bệnh nhân mỗi ngày nên ăn hoặc uống thêm 2 vị Sinh địa 50g và Hoài sơn 50g thêm 1 tháng nữa, bệnh lành.
- Bài “Sinh mạch thang gia giảm” của danh y Phó Thanh Chủ, đời Nhà Thanh, Trung Quốc
Huyền sâm 40g; Mạch môn 20g; Sinh địa 12g; Trúc diệp 08g; Cúc hoa 08g; Bạch giới tử 08g; Mẫu đơn bì 08g; Trần bì 04g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Bài này chuyên trị bệnh tiểu đường với triệu chứng khát nước nhiều, uống nhiều, đói nhiều, tiểu nhiều.
- Bài “Tiêu khát phương gia giảm” trong “Thiên gia diệu phương”
Đảng sâm 10g; Thạch cao 60g; Phục linh 10g; Xuyên hoàng liên 03g; Hoàng cầm 10g; Tri mẫu 10g; Thiên hoa phấn 15g; Thiên môn 12g; Mạch môn 10g; Đỗ trọng 12g; Tật lê tử 10g; Cẩu tích 10g; Kê nội kim 06g; Bội lan diệp 10g; Thương truật 10g; Qui bản 30g; Thạch hộc 10g; Thỏ ty tử 12g.
Sắc uống mỗi ngày 1 thang
Hiệu quả lâm sàng: Lê Thái Trị 61 tuổi, có tiền sử bệnh tiểu đường 10 năm, có điều trị bằng Tây y nhưng kết quả không ổn định.
Sau khi cho uống 20 thang “Tiêu khát phương gia giảm”, xét nghiệm đường niệu từ +++ hạ xuống ++. Lại cho uống thêm 20 thang nữa, xét nghiệm đường niệu đã sạch, đường huyết bình thường, bệnh khỏi. Theo dõi 3 năm không thấy tái phát.
- Bài “Âm hư thanh nhiệt bổ thận thang gia giảm” từ bài Đan Khê tâm pháp, Ngọc Nữ tiễn và Lục vị toàn tổng hợp
Thạch cao 60g; Qui bản 30g; Thỏ ty tử 12g; Thiên môn 12g; Đỗ trọng 12g; Thiên hoa phấn 15g; Tri mẫu 10g; Hoàng bá 10g; Sinh địa 15g; Hoài sơn 15g; Sơn thù 12g; Phục linh 12g; Trạch tả 12g; Địa cốt bì 12g; Mạch môn 10g; Tật lê tử 10g; Cẩu tích 10g; Bội lan diệp 10g; Thạch hộc 10g; Đảng sâm 10g; Thương truật 10g; Kê nội kim 06g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Huỳnh Minh Trung, 62 tuổi, bị bệnh tiểu đường hơn 5 năm, trị nhiều nơi và nhiều loại thuốc Đông – Tây y nhưng không ổn định. Xét nghiệm đường niệu +++, đường huyết 187 mg/dl.
Sau khi cho dùng 20 thang “Dưỡng âm thanh nhiệt bổ thận thang gia giảm” xét nghiệm đường niệu giảm xuống còn +, đường huyết còn 155mg/dl. Cho uống thêm 20 thang nữa, đường niệu trở thành âm tính (-), đường huyết trung bình 105mg/dl. Khuyên bệnh nhân uống thêm 10 thang nữa để củng cố kết quả, xét nghiệm máu và nước tiểu vẫn ổn định. Theo dõi 10 năm, hỏi lại, sức khoẻ vẫn bình thường.
- Bài “Giáng đường ẩm” trong “Thiên gia diệu phương”
Thạch cao 60g; Hoài sơn 30g; Sinh địa 30g; Đảng sâm 30g; Huyền sâm 15g; Hoàng kỳ 15g; Ngũ vị tử 12g; Tri mẫu 12g; Mạch môn 12g; Ký quả 10g; Hà thủ ô 10g;Thương truật 06g.
Sắc uống ngày 1 thang, uống liên tục cho đến khi đường niệu chuyển sang âm tính (-). Sau đó, thuốc sắc chế thành thuốc hoàn, ngày uống 3 lần, mỗi lần 10g.
Gia giảm: Nếu huyết áp cao, bệnh động mạch vành, gia thêm Cát căn 12g, Hoàng cầm 10g, Tử đan sâm 12g. Nếu ngoài da có nổi mụn nhọt, gia thêm Bồ công anh 20g, Hoàng bá 10g, Bạch cương tầm 10g. Nếu mất ngủ, gia thêm Táo nhân (sao với giấm) 15g. Nếu tiểu nhiều, gia thêm Sơn thù nhục 12 – 15g. Muốn cho đường huyết hạ nhanh, gia thêm Huyền sâm 15g, Thạch hộc 12g, Hoàng tinh 15g.
Hiệu quả lâm sàng: Đã trị cho 80 bệnh nhân bị tiểu đường với mức độ bệnh lý và đường huyết khát nhau, phần lớn sau khi uống 5 – 10 thang “Giáng đường ẩm” thấy công hiệu rõ rệt. Sau khoảng 1 tháng, đường huyết căn bản ổn định. Trường hợp bài này sau 40 ngày mà không thấy chuyển biến, nên đổi sang phương thuốc khác.
- Bài “Dưỡng âm sinh tán phương” trong “Thiên gia diệu phương”
Đại sinh địa 50g; Địa cốt bì 30g; Huyền sâm 20g; Sơn thù nhục 15g;Hoài sơn 15g; Ngọc trúc 15g; Nữ trinh tử 15g; Câu kỷ tử 15g; Mạch môn 30g; Cam thảo 15g; Hà thủ ô 15g; Ô mai nhục 10g; Sa nhân nhục 05g (tán bột, chia uống 2 – 3 lần với nước thuốc).
Sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Võ Thị Thu Hà, 40 tuổi, thể chất béo tốt, bị tiểu đường 2 – 3 năm, đã trị Đông – Tây y nhiều lần nhưng không hiệu quả. Xét nghiệm đường huyết 320mg/dl, đường niệu +++.
Sau khi dùng 15 thang “Dưỡng âm sinh tân”, bệnh nhân cảm thấy khoẻ, giảm khát nước, giảm mệt mỏi, mắt nhìn tinh anh. Cho uống tiếp 30 thang nữa, xét nghiệm đường huyết còn 175mg/dl, đường niệu còn ++. Liền cho giảm lượng thuốc mỗi vị một cách thích hợp, uống thêm 30 thang nữa, xét nghiệm lại đường huyết hạ xuống 120mg/dl, đường niệu âm tính (-), sức khoẻ rất tốt. Khuyên bệnh nhân uống thêm 15 thang nữa để củng cố kết quả. Theo dõi 5 năm chưa thấy dấu hiệu tái phát. Bệnh khỏi.
Bình luận: Theo y học hiện đại, tiểu đường là bệnh không có thuốc điều trị, phải đeo mang suốt đời. Tuy nhiên, điều trị theo Đông y, số bệnh nhân lành bệnh không phải là hiếm. Kinh nghiệm điều trị theo Đông y, ngoài việc dùng thuốc thích hợp và kiên nhẫn, còn phải kiêng ăn uống những thứ thực phẩm sinh ra nhiều đường như bắp, xoài chín, mít, nước ngọt, bánh kẹo, gạo nếp thì mới thu được kết quả tốt.
Sau đây một vài điều kiêng kỵ:
– Tránh sinh hoạt sinh hoạt vợ chồng trong 1 – 2 năm.
– Tránh ăn thực phẩm béo, ngọt, tinh bột.
– Tránh giận dữ, luôn giữ thái độ bình tĩnh, khoan hoà.
– Tránh thời tiết giá lạnh, giữ cơ thể luôn sạch sẽ.
– Tránh làm việc quá sức, đề phòng bị thương tích.
- Bài “Sinh mạch bạch hổ thang gia vị” trong “Thiên gia diệu phương”
Đảng sâm 50g; Mạch môn 40g; Tri mẫu 20g; Hồng mai 15g; Ngũ vị tử 10g; Cam thảo 10g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Gia giảm: Nếu khát nước nhiều, uống nhiều, gia thêm Thạch cao 50g, Thiên hoa phấn 50g. Nấu ăn nhiều, mau đói, táo bón, gia thêm Hoàng cầm 15g. Mang tiêu 06g. Nếu đi tiểu nhiều, nước tiểu đặc quánh như cao, gia ích trí nhân 10g, Phúc bồn tử 15g, Ngũ bội tử 06g.
Hiệu quả lâm sàng: Lê Việt 37 tuổi, vì buôn bán thua lỗ sinh ra u uất rồi dẫn tới liệt dương, xuất tinh sớm, khiến vợ chồng bất hoà. Tâm trạng ngày thêm đè nặng, hay váng đầu, mất ngủ. Một thời gian sau, phát giác bị bệnh tiểu đường.
Khám thấy bệnh nhân cơ thể gầy gò, khát nước uống nhiều, đi tiểu nhiều, hay đổ mồ hôi, mệt, đầu choáng váng, không ngủ được. Sau khi uống bài “Sinh mạch bạch hổ thang gia vị” 6 thang, các triệu chứng giảm quả nửa, chỉ còn đổ mồ hôi. Bèn chuyển sang bài “Đương qui Lục hoàn thang” gồm:
Đương qui 15g; Sinh địa 20g; Hoài sơn 15g; Sơn thù nhục 12g; Phục linh 12g; Trạch tả 12g; Địa cốt bì 20g,
Uống 5 thang, mồ hôi không còn tươm ra nữa. Lại uống tiếp bài thứ nhất, cả thảy 40 thang, bệnh dứt, sức khoẻ ổn định.
Bài thuốc Đông y hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường mang tính chất tham khảo độc giả không nên tự ý bốc thuốc uống khi cần phải gặp bác sĩ đông y để được thăm khám và kê toa. Quý khách có nhu cầu thăm khám và tư vấn miễn phí vui lòng liên hệ:
Thiện Minh Y Quán
ĐC: B14/12/9, Cây Cám, Tân Vĩnh Lộc, TPHCM
ĐT & Zalo: 0904 890 895 – Website: www.thienminhyquan.com