Facebook 08h00 - 20h00 hằng ngày
Zalo 08h00 - 20h00 hằng ngày
Gọi ngay
0904 890 895 08h00 - 20h00 hằng ngày
Home

BÀI THUỐC ĐÔNG Y TRỊ RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA LIPID MÁU

 Bài thuốc đông y trị rối loạn chuyển hóa lipid máu

Rối loạn chuyển hóa lipid máu là khi mà hàm lượng của một thành phần hoặc là nhiều thành phần chất mỡ trong huyết tượng vượt quá giới hạn bình thường, cũng có thể gọi là chứng mỡ máu cao (hyperlipidemia).

Do mỡ dạng hòa tan trong huyết tương hoặc kết hợp mỡ hòa tan với albumin để vận chuyển đi toàn thân gọi là chứng lipid albumin tăng (hyperlipoproteinemia).

Rối loạn lipid máu là bệnh do rối loạn chuyển hóa, thường là chứng bệnh nghiêm trọng và phức tạp.

Triệu chứng không rõ ràng, chẩn đoán bệnh chủ yếu là dựa vào xét nghiệm lipid máu. Do rối loạn chuyển hóa lipid máu dẫn đến xơ hóa mạch, động mạch kém đàn hồi, lâm sàng thường biểu hiện triệu chứng thiểu năng tuần hoàn vành, nhồi máu cơ tim hoặc nhồi máu não do vữa xơ động mạch.

Kiểm tra lipid máu thấy cholesterol toàn phần (TC) tăng, triglyceride (TG) tăng, VLDL (verlow density lipoproteine) tăng, LDL (low density lipoproteine) tăng, IDL (intermediate density lipoproteine) tăng, HDL (high density lipoproteine) giảm.

Chẩn đoán xác định

Tiêu chuẩn đoán rối loạn lipid máu theo NCEP ATP III (2001):

              Xét nghiệm lipoprotein lúc đói (mmol/l)                            Xét nghiệm lipoprotein lúc đói (mmol/l)
TC LDL – C
< 5,17 Bình thường < 2,58 Tối ưu
5,17 – 6,18 Giới hạn cao 2,58 – 3,33 Gần tối ưu
≥ 6,20 Cao 3,36 – 4,11 Giới hạn cao
TG 4,13 – 4,88 Cao
< 1,695 Bình thường ≥ 4,91 Rất cao
1,695 – 2,249 Giới hạn cao HDL – C
2,26 – 5,639 Cao < 1,03 Thấp
≥ 5,65 Rất cao ≥ 1,55 Cao

Y học cổ truyền

Theo y học cổ truyền, các triệu chứng mô tả trong bệnh rối loạn lipid máu thuộc phạm trù chứng đàm trọc, đàm ứ.

Cuốn “Linh khu vệ sinh thất thường luận” đưa ra các khái niệm về “mỡ”, “cao”, “nhục”. “Từ hải” có nêu cái gọi là mỡ là chất dầu, chất béo có chứa trong động vật và thực vật. “Từ nguyên” có nêu: cao tức là mỡ, cái mà ngưng lại cũng là mỡ, cái mà giải phóng ra cũng là “cao”. Căn cứ vào lý luận tân và huyết cùng nguồn, Trương Cảnh Nhạc (đời Minh) đề xuất: tân và dịch hòa hợp thành “cao” để bù đắp cho phần giữa của ống xương tức là não, tủy, tinh, huyết. Trương Chí Thông (đời Thanh) trong cuốn “Nội kinh” có nêu: khí ở trung tiêu chuyển hóa tân dịch thành tinh chất; thấm ra bên ngoài bì phu cơ nhục thành mỡ, nó còn dư lại bên trong thành các chất mỡ. Vậy nên, mỡ máu cao nó có nguồn gốc từ thủy cốc, cũng là một trong những thành phần chất của tân dịch; đồng thời chất mỡ có thể chuyển hóa vào trong máu thành chất dinh dưỡng nuôi cơ thể. Nếu chuyển hóa quá nhiều, hay vận chuyển hoặc bài tiết rối loạn đều có thể làm mỡ máu tăng lên mà thành bệnh. Ngoài ra, người ta còn nói đến yếu tố bẩm sinh không bình thường dẫn đến tăng mỡ máu.

Trong “Nội kinh”, các nhà y học thường bàn luận từ phương diện đàm trọc, đàm ứ. Trong cuốn “Chứng trị vựng bổ. Nội nhân môn” có nêu: khí đạo của người tốt nhất là thông thoát thì tân dịch lưu thông; còn khi có đàm, kết hợp với các nhân tố thất tình (kinh, sợ, nộ, ưu, tư), ẩm thực, lao động quá sức, tửu sắc vô độ, doanh vệ bất hòa, khí huyết trọc bại … hun đúc gây nên đàm trọc. Trong “Y biện. Quyển 2” có nêu: đàm ở đầu thì gây chứng đau đầu và chóng mặt; đàm ở mắt thì gây hoa mắt; đàm ở tứ chi thì gây chân tay tê nhức và đau mỏi, nếu nặng thì không cử động được; nếu ở tâm thì gây hồi hộp, trống ngực, hay quên. Trong cuốn “Tồn tồn trai y thoại cảo. Quyển 1” có nêu: muốn trị đàm thì không trị đàm mà trị khí, khí thuận thì tân dịch toàn thân cũng theo khí thuận.

Nguyên nhân sinh bệnh

Các thành phần dịch đặc đục dưới tác dụng của chức năng tán tỉnh của tỳ và khí hóa của tam tiêu sẽ thấm vào máu hình thành nên chất “cao” (mỡ máu). “Chất cao” theo huyết dịch vận hành khắp cơ thể để nuôi dưỡng toàn thân. Phần lớn “chất cao” là chất dinh dưỡng chủ yếu cho cơ thể. Một phần “chất cao” biến thành mỡ tích tụ lại ở lớp mỡ dưới da và các khoang cơ thể, lúc cần thiết lại đưa ra sử dụng. Khi “chất cao” quá thừa thì thông qua cơ chế sơ tiết của can để bài tiết. Tân dịch của cơ thể là một hệ thống rất phức tạp và hoàn chỉnh, giữa các thành phần có sự chuyển hóa lẫn nhau cho nên có người gọi là kết nối tân dịch. “Chất cao” cũng có thể chuyển hóa với các thành phần khác. Chuyển hóa và vận chuyển “chất cao” nhờ vào sự hấp thụ vận hóa của tỳ vị đưa lên phế, được phế đưa vào huyết mạch đi nuôi dưỡng toàn thân và nhờ vào sự sơ tiết của can đởm, chủ quản của thận, khí hóa của tam tiêu … Trong đó, mối quan hệ giữa tỳ, can, thận là rất mật thiết. Sự hình thành “chất cao” là do rất nhiều nguyên nhân gây ra tác động đến cơ thể làm cho chức năng của tạng phủ bị rối loạn sinh ra. Theo y học cổ truyền thì rối loạn chuyển hóa lipid máu bao gồm những nguyên nhân sau:

Do tố bẩm thất thường: ít vận động, bản tạng âm hư, không tàng trữ được cao mỡ làm mỡ hòa tan vận chuyển vào máu. Đây là nguyên nhân chủ yếu gây nên bệnh hoặc bẩm thụ bố mẹ béo phì, khi trưởng thành cơ thể béo trệ, dương khí không đầy đủ ảnh hưởng đến sự vận hóa, chuyển hóa mỡ giảm làm rối loạn chuyển hóa lipid máu hoặc do ít vận động, ngồi nhiều làm vận hành của khí không lưu thông, khí uất thì tân dịch phân bố trở ngại gây rối loạn chuyển hóa và vận chuyển nên chất mỡ đình trệ thành bệnh.

Do ăn uống không điều độ, tỳ vị thất điều: ăn uống không điều độ, ăn uống nhiều chất cay, uống nhiều rượu … đều gây tổn thương tỳ vị làm cho công năng vận hóa của tỳ vị rối loạn, thấp tụ lại sinh đàm hoặc ăn nhiều chất béo và ngọt làm cho mỡ vào cơ thể quá nhiều, vận chuyển và phân bố bị rối loạn đình trệ trong máu dẫn đến rối loạn lipid máu.

Tình chí nội thương: can đởm bất lợi, ưu tư lo lắng, tinh thần căng thẳng, can uất tỳ hư, sơ tiết không điều đạt, tỳ không tán tinh không quản lý được sự vận hóa hoặc uất hỏa tổn thương âm dẫn đến hun đốt tân dịch thành đàm.

Cơ thể suy nhược của người già: nguyên khí của thận bị suy tổn, người già tuổi cao, phụ phủ ngũ tạng đều suy yếu nhất là tạng thận (thận chủ ngũ dịch) là quản lý khí huyết tân dịch và cao mỡ. Thận dương vượng có lợi cho sự vận chuyển, chuyển hóa, phân bố sử dụng cao mỡ. Thận âm bất túc, cao mỡ không tàng trữ được mà thấm vào trong máu. Thận dương bất túc làm rối loạn chức năng ôn ấm tỳ. Nguyên âm hao tổn làm thủy không hàm được mộc gây rối loạn chức năng sơ tiết. Các nguyên nhân trên đều có thể sản sinh ra đàm trọc.

Nếu tuổi chưa cao nhưng do lao động quá sức, lo lắng quá nhiều đều có thể gây nên thận dương hao hư và gây nên chứng bệnh trên.

BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ

Đặc điểm biện chứng

Đặc điểm về cơ chế bệnh sinh của chứng rối loạn mỡ máu phần nhiều là bản hư và tiêu thực. Bản hư là tỳ thận hư tổn, tiêu thực chủ yếu là đàm trọc và huyết ứ. Quá trình phát triển bệnh gồm ba giai đoạn:

Rối loạn chức năng của can, tỳ, thận làm ảnh hưởng đến chuyển hóa các chất tinh vi gây nên chứng thấp trọc nội sinh.

Chức năng của các tạng phủ bị tổn thương gây nên đàm thấp nội thịnh, thấp uất hóa nhiệt, triệu chứng trong giai đoạn này là đàm trọc uất hỏa.

Bệnh trình cùng phát triển gây đàm ứ hỗ kết, thương khí, thương âm, có thể âm dương thất điều dẫn đến bệnh tình càng nghiêm trọng, tạng phủ hư tổn, từ đó xuất hiện nhiều biến chứng.

Nguyên tắc điều trị

Bản chất và cơ chế bệnh thuộc “bản hư tiêu thực”, cho nên nguyên tắc điều trị cơ bản là tiêu bản kiêm trị. Trên lâm sàng, phải căn cứ vào triệu chứng hoãn hay cấp để chọn nguyên tắc: phù chính là phủ, phù chính trước trừ tà sau, trừ tà trước phù chính sau hoặc tiêu bản đồng trị.

Trị bản chủ yếu là dùng pháp ích thận bổ tỳ.

Trị tiêu là dùng pháp khứ đàm trừ thấp, thanh lý thông hạ, hoạt huyết háo ứ.

Ngoài ra, cần phải phối hợp để chế độ ăn uống và vận động liệu pháp, khí công liệu pháp và dưỡng sinh phòng bệnh.

PHÂN THỂ ĐIỀU TRỊ

1.ĐÀM THẤP NỘI TRỞ

 Lâm sàng: cơ thể béo phì, đau đầu, đau tức ngực, trưỡng bụng, buồn nôn hoặc nôn khan, miệng khô không khát, chân tay gầy, chi thể nặng nề, chất lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng trơn, mạch hoạt.

Pháp điều trị: kiện tỳ hóa đàm trừ thấp.

Bài thuốc: Nhị trần thang (Thái bình huệ dân hòa tễ cục phương).

Trần bì  15g, Bán hạ chế  12g, Phục linh  12g, Cam thảo  06g.

Các vị thuốc trên sắc với sinh khương 07 lát, ô mai 01 quả, ngày uống 01 thang.

Trong bài thuốc trên thì bán hạ có tính vị cay, đắng, ôn táo; có tác dụng táo thấp hóa đàm, giáng nghịch hòa vị chỉ nôn. Trần bì có tác dụng lý khí táo thấp, hòa vị hóa đàm làm cho khí thuận đàm tiêu. Phục linh có tác dụng lợi thấp kiện tỳ, thấp khứ thì đàm sẽ tiêu. Sinh khương có tác dụng giáng nghịch, hòa vị, ôn hóa đàm ẩm mà giúp cho bán hạ hóa đàm, đồng thời khống chế bớt độc tính của bán hạ. Ô mai dùng liều nhỏ, vị chua có tác dụng thu liễm để đề phòng thuốc tiêu đàm hành khí và làm giảm tính ôn táo, cay tán làm thương âm. Cam thảo điều hòa các vị thuốc, hòa hoãn tính cay táo của thuốc tiêu đàm.

Nếu tỳ hư gây ăn kém, đại tiện nát thì ra bạch truật 15g, trạch tả  15g.

Nếu đàm thấp hóa nhiệt gây bứt rứt, mệt mỏi thì gia uất kim 12g, xương bồ  12g để hóa thấp thanh tâm. Nếu mất ngủ, nói nhiều thì phối hợp với bài Hoàng liên ôn đởm thang để điều trị.

Châm tả các huyệt: Nội quan, Phong long, Trung quân, Giải khê; châm bổ các huyệt Túc tam lý, Tỳ du.

2.ĐÀM NHIỆT PHỦ THỰC

Lâm sàng: hình thể to khỏe, đầu căng nặng, tính tình cáu gắt, mặt đỏ, mắt đỏ, miệng đắng, ngực tức, bứt rứt khó chịu, bụng trướng, đại tiện táo bón, chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch hoạt có lực.

Pháp điều trị: thanh nhiệt, hóa đàm, thông phủ.

Bài thuốc: Tiểu hãm hung thang phối hợp với Tăng dịch thừa khí thang.

Hoàng liên  12g, Chế bán hạ  10g, Qua lâu nhân  12g, Sinh địa  20g, Huyền sâm  20g, Mạch môn  15g, Đại hoàng  06g, Mang tiêu  06g, Thảo quyết minh  12g.

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang, chia làm 02 lần.

Trong bài thuốc trên thì qua lâu nhân có tính vị ngọt lạnh hoạt nhuận; có tác dụng thanh  phế háo đàm, lợi khí khoan hung tán kết, nhuận tràng, dẫn đàm trọc xuống dưới. Hoàng liên có tính vị đắng, lạnh; có tác dụng tả nhiệt giáng hỏa, thanh tâm trừ phiền, trợ giúp qua lâu nhân tiết nhiệt giáng trọc. Bán hạ có tính vị đắng, cay, ôn táo; có tác dụng hóa thấp giáng trọc giúp qua lâu nhân trừ đàm khoan hung. Huyền sâm có tính vị đắng, mặn, lạnh; có tác dụng thanh nhiệt dưỡng âm, sinh tân nhuận trường. Mạch môn, sinh địa có tính vị ngọt, lạnh; có tác dụng dưỡng âm sinh tân. Mang tiêu, đại hoàng có tác dụng nhuyễn kiên nhuận táo, tả nhiệt thông tiện.

Châm tả các huyệt: Phế du, Xích trạch, Phong long, Đại trường du, Hợp cốc, Khúc trì.

3.TỲ THẬN DƯƠNG HƯ.

Lâm sàng: mặt phù, lưng và gối đau, sợ lạnh, tinh thần mệt mỏi, bụng trướng, đại tiện lỏng nát, đái đêm nhiều, chất lưỡi bệu nhợt, rìa lưỡi có hằn răng, rêu lưỡi trắng dày, mạch trầm trì.

Pháp điều trị: ôn bổ tỳ thận.

Bài thuốc: Phụ tử lý trung hoàn (Hòa tễ cục phương).

Chế phụ tử  09g, Nhân sâm  09g, Bạch truật  09g, Can khương  09g, Cam thảo  09g.

Các vị thuốc trên tán thành bột, hoàn với mật ong làm viên, cứ 30g làm thành 10 viên, uống trước khi ăn mỗi lần 01 viên. Hiện nay, người ta cân đối liều để sắc uống, ngày 01 thang.

Trong bài thuốc trên thì phụ tử có tính vị cay, dại nhiệt; có tác dụng tráng thiếu hỏa, ôn bổ thận dương. Can khương có tinh vị cay nóng, nhập kinh tỳ vị; có tác dụng ôn trung khứ hàn, ôn bỏ tỳ dương. Nhân sâm có tính vị ngọt hơi ấm, có tác dụng bổ khí kiện tỳ. Bạch truật có tính vị đắng ấm; có tác dụng kiện tỳ táo thấp, cùng với nhân sâm để tăng cường công năng vận hóa của tỳ. Cam thảo có tính vị ngọt ấm hòa vị hoãn cấp. Các vị thuốc trên phối hợp với nhau có tác dụng ôn dương khứ hàn, ích khí kiện tỳ.

Nếu thận hư gây tiểu tiện ít, phù thũng thì gia xa tiền tử  15g, ngưu tất 12g để hóa khí lợi thủy.

Nếu tỳ khí hư nhược gây bụng trướng, ăn kém, đại tiện nát thì gia phục linh 15g, hoàng kỳ  20g để kiện tỳ ích khí.

Châm bổ các huyệt: Tỳ du, Trung quản, Chương môn, Thần khuyết, Túc tam lý, Mệnh môn, Quan nguyên.

4.CAN THẬN ÂM HƯ.

Lâm sàng: đau mỏi lưng và gối, người bứt rứt khó chịu, đầu đau, hoa mắt chóng mặt, cơ thể mệt mỏi, tai ù, ra mồ hôi trộm, miệng khô và khát, chất lưỡi đỏ, ít rêu lưỡi, mạch tế sác.

Pháp điều trị: tư dưỡng can thận.

Bài thuốc: Kỷ cúc địa hoàng hoàn (Ma chẩn toàn thư)

Thục địa  24g, Trạch tả  09g, Hoài sơn  12g, Đan bì  09g, Sơn thù  12g, Bạch linh  09g, Kỷ tử  12g, Cúc hoa  12g.

Các vị thuốc trên nghiền bột, luyện mật ong làm hoàn, mỗi lần uống 06 – 09g, ngày uống 02 – 03 lần.

Trong bài thuốc trên thì thục địa có vị ngọt thuần âm, nhập kinh thận; có tác dụng tư dưỡng thận âm, trấn tinh ích tủy. Sơn thù có tính vị chua ấm, nhập kinh cam; có tác dụng dưỡng can thận, cố thận ích tinh, thu liễm hư hỏa. Sơn dược có tính vị ngọt bình, nhập tỳ kinh; có tác dụng bồ tỳ âm, nhiếp tinh, kiện vận tỳ khí. Ba vị thuốc này phối hợp với nhau đạt được mục đích tam âm đều bổ. Phục linh cùng với sơn dược có tác dụng tăng cường thẩm lợi tỳ thấp. Trạch tả có tác dụng thông lợi thủy đạo để làm giảm tính nê trệ của thục địa. Đan bì được sơn thù trợ giúp để thanh tả hư hỏa. Như vậy, trong bài thuốc này có ba vị có tác dụng bổ và ba vị có tác dụng tả; tư bổ mà không lưu tà, giáng tiết mà không làm tổn thương chính khí. Kỷ tử, cúc hoa có tác dụng tăng cường tư âm giáng hỏa, thích hợp với chứng can thận âm hư gây hoa mắt, hai mắt mờ và khô sáp.

Nếu đau đầu, hoa mắt (do phong dương thượng nghịch) thì gia câu đằng 15g, thiên ma 12g, hạ khô thảo 12g để thanh nhiệt bình can.

Nếu bứt rứt khó chịu, mất ngủ, ra mồ hôi trộm … thì gia miết giáp  12g, quy bản  12g, địa cốt bì 12g để dưỡng âm thanh nhiệt.

Châm cứu: châm bổ huyệt Can du, Thận du, Tam âm giao, Dương lăng tuyến.

5.ĐÀM TRỆ HUYẾT Ứ

Lâm sàng: cơ thể béo, chi thể nặng nề, tê mỏi hoặc thỉnh thoảng có cơn đau thắt ngực, đau đầu, chóng mặt, chất lưỡi ám tím hoặc có ban điểm ứ huyết, rêu lưỡi dày nhờn, mạch huyền hoạt hoặc mạch sác.

Pháp điều trị: lý khí hóa đàm, hoạt huyết khứ ứ.

Bài thuốc: Qua lâu giới bạch bán hạ thang phối hợp với Đào hồng tứ vật thang.

Qua lâu  10g, Giới bạch 10g, Chế bán hạ  12g, Thục địa  12g, Quy vĩ  12g, Xích thược  12g, Xuyên khung  12g, Đào nhân  08g, Hồng hoa  10g.

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang, ngày uống 02 lần.

Trong bài thuốc trên thì qua lâu có tính vị tính vị ngọt lạnh; có tác dụng thanh phế hóa đàm, lợi khí khoan hung, hoạt nhuận thông trường nên làm cho đàm trọc được đưa xuống dưới. Giới bạch, chế bán hạ có tính vị cay, đắng, ấm; có tác dụng táo thấp hóa đàm, tuyên thông phế khí, giáng nghịch hòa vị, chỉ nôn. Ba vị phối hợp có tác dụng làm tăng cường hóa đàm, ích khí vận tỳ thông dương. Còn các vị xuyên khung, đương quy, thục địa, xích thược, đào nhân, hồng hoa đều có tác dụng dưỡng huyết, hoạt huyết, khứ ứ; giúp cho giới bạch, bán hạ, qua lâu tăng cường hóa đàm, tiêu ứ, giáng trọc.

Nếu chóng mặt, hoa mắt thì gia thiên ma 12g, trạch tả 15g, bạch truật 15g.

Nếu chân tay tê mỏi thì gia mộc qua  12g, kê huyết đằng  15g, địa long  09g nếu có cơn đau thắt ngực thì gia đan sâm 15g, giáng hương 10g.

Khoa A9 – Bệnh viện 103 đã ứng dụng bài thuốc “ST – 99” để điều trị chứng rối loạn lipid máu đạt hiệu quả nhất định.

Trạch tả 30g, Đan sâm  30g, Bạch truật  20g, Chỉ xác  30g, Đại hoàng  05g, Phá cố chỉ  10g, Ngải tượng  05g, Sơn tra 10g.

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang, chia 02 lần.

Châm tả các huyệt: Trung quản, Phong long, Huyết hải, Hành gian.

6.CAN UẤT TỲ HƯ

Lâm sàng: đau tức mạn sườn, đau không cố định, đau đầu, hoa mắt chóng mặt, tính tình cáu gắt, ăn kém, tinh thần mệt mỏi, đại tiện lỏng nát, phụ nữ rối loạn kinh nguyệt, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi mỏng nhờn, mạch huyền.

Pháp điều trị: sơ can giải uất, kiện tỳ dưỡng huyết.

Bài thuốc; Tiêu dao tán (Thái bình huệ dân hòa tễ cục phương).

Đương quy  30g, Bạch thược  30g, Bạch truật  30g, Cam thảo  15g, Bạch linh  30g, Sài hồ  30g.

Các vị thuốc trên tán bột, mỗi lần uống 06 – 09g, uống với nước sắc sinh khương và bạc hà, ngày uống 03 lần.

Trong bài thuốc trên thì sài hồ có tác dụng sơ can giải uất làm cho can khí sơ thông. Bạch thược có tác dụng tư âm nhu can. Đương quy có tác dụng dưỡng huyết hoạt huyết. Hai vị này phối hợp có tác dụng khống chế sài hồ sơ tiết thái quá. Bạch truật bạch linh, cam thảo đều có tác dụng kiện tỳ ích khí, tăng cường vận hóa của tỳ, tăng cường nguồn hóa sinh khí huyết. Sinh khương có tác dụng ôn vị hòa trung. Bạc hà giúp sài hồ sơ can mà tán uất nhiệt. Cam thảo điều hòa vị thuốc.

Nếu can uất hóa hỏa gây hoa mắt, chóng mặt, đau đầu thì gia hổ trượng 12g, cúc hoa 10g, đan bì 12g, quyết minh tử 15g để thanh tiết can kinh uất hỏa.

Nếu hỏa nhiệt thương âm thì gia hà thủ ô  12g, sinh địa 12g để dưỡng can âm. Nếu tỳ khí hư gây ăn kém, bụng trướng, đại tiện lỏng nát thì phối hợp với bài Tứ quân tử thang.

Châm cứu: châm bổ các huyệt Can du, Tỳ du, Túc tam lý; châm tả các huyệt Thái xung, Chương môn, Trung quản, Huyết hải.

KẾT LUẬN

Theo y học cổ truyền, các triệu chứng mô tả trong bệnh rối loạn lipid máu thuộc phạm trù chứng đàm trọc, đàm ứ.

Nguyên nhân chứng rối loạn lipid máu chủ yếu liên quan đến rối loạn về chức năng của ba tạng tỳ, thận, can. Trong đó, chủ yếu là tổn thương đến tỳ, thận. Tỳ khí hư nhược, kiện vận thất điều làm cho thức ăn không thể hóa thành chất tinh vi, ứ trệ thành đàm trọc gây bệnh. Thận suy, khí hóa bất tân, đàm trọc tích tụ ở trong dẫn đến tâm huyết ứ trở, mạch lạc kết trệ hoặc do can thận âm hư, hư hỏa thăng bốc thiêu đốt tân dịch thành đàm, đàm trọc nội trở gây bệnh. Y học cổ truyền cho rằng bản chất bệnh là bản hư tiêu thực: tiêu phần nhiều biểu hiện là đàm trọc huyết ứ, bản là biểu hiện công năng tặng phủ hư tổn (chủ yếu là do tỳ, thận).

Về điều trị: bản chất và cơ chế bệnh thuộc bản hư tiêu thực nên nguyên tắc cơ bản là tiêu bản kiêm trị. Trên lâm sàng, phải căn cứ vào triệu chứng hoãn hay cấp để chọn phù chính là chủ, phù chính trước trừ tà sau; ngược lại trừ tà trước phù chính sau hoặc tiêu bản đồng tị. Trị bản chủ yếu là pháp ích thận bổ tỳ. Trị tiêu chủ yếu là khứ đàm trừ thấp, thanh lý thông hạ, hoạt huyết hóa ứ.

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *