Facebook 08h00 - 20h00 hằng ngày
Zalo 08h00 - 20h00 hằng ngày
Gọi ngay
0904 890 895 08h00 - 20h00 hằng ngày
Home

BÀI THUỐC ĐÔNG Y TRỊ HÀNH KINH ĐAU BỤNG

Bài thuốc đông y trị hành kinh đau bụng

Phụ nữ khi hành kinh hoặc trước, sau hành kinh xuất hiện đau bụng dưới có tính chất chu kỳ, ảnh hưởng tới sinh hoạt và công tác thì gọi là hành kinh đau bụng (đau bụng kinh hay là thống kinh).

Hành kinh đau bụng được phân thành nguyên phát và thứ phát.

Hành kinh đau bụng nguyên phát: trước, trong hay sau kỳ kinh xuất hiện đau bụng nhiều, thường gặp ở bệnh nhân nữ tuổi thanh xuân.

Hành kinh đau bụng thứ phát: đau bụng kinh nguyên nhân nào đó như lỗ màng trinh quá nhỏ, đường kính của tử cung quá hẹp, vị trí tử cung quá nghiêng lệch về phía trước hoặc ra sau, lạc nội mạc tử cung, viem vùng hố chậu.

Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định

Căn cứ vào lời kể của bệnh nhân, kết hợp với quan sát các biểu hiện của bệnh, có thể phân hành kinh đau bụng làm ba mức độ: nặng, trung bình, nhẹ.

Mức độ nặng: bụng dưới đau, khó chịu, nằm ngồi không yên; ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác, học tập và sinh hoạt hàng ngày, phải nằm nghỉ trên giường; kèm theo đau lưng, sắc mặt trắng bệch, mồ hôi lạnh ra nhiều, tứ chi quyết lạnh, nôn mửa và ỉa lỏng hoặc cửa hậu môn có cảm giác sưng nề, sa xuống, dùng các biện pháp giảm đau không có hiệu quả rõ.

Mức độ trung bình: bụng dưới đau, khó chịu, eo lưng đau, buồn nôn, tứ chi lạnh, dùng các biện pháp giảm đau thì cơn đau tạm thời giảm xuống.

Mức độ nhẹ: bụng dưới đau, kèm theo đau lưng, còn có thể làm việc được, có lúc cần uống thuốc giảm đau.

Chẩn đoán phân biệt

Xuất hiện âm đạo có đau bụng dưới do nguyên nhân khác như chửa ngoài dạ con, đẻ non.

Những đau bụng xuất hiện do những nguyên nhân khác cũng có thể phát sinh ở thời gian hành kinh hoặc trong lúc hành kinh làm cho nó nặng thêm.

Y học cổ truyền

Theo y học cổ truyền, các triệu chứng mô tả trong bệnh hành kinh đau bụng (thống kinh) thuộc phạm trù kinh hành phúc thống.

Phụ nữ trước hành kinh hoặc trong và sau khi hành kinh xuất hiện đau bụng vùng hạ vị hoặc đau lan đến vùng thắt lưng cùng; nếu nặng có thể thấy sắc mặt xanh nhợt, tự ra mồ hôi lạnh, buồn nôn và nôn, tay chân lạnh gọi là hành kinh đau bụng (thống kinh). Thống kinh là tùy thuộc vào chu kỳ kinh nguyệt, có biểu hiện triệu chứng đau, nếu chỉ có cảm giác đau nhẹ vùng hạ vị lan đến thắt lưng cùng thì đây là hiện tượng sinh lý bình thường.

Nguyên nhân sinh bệnh

Nguyên nhân thống kinh là do cơ thể có dị thường (dị dạng) và sự thay đổi sinh lý giữa chu kỳ hành kinh là nhân tố bên trong phát sinh bệnh; kết hợp với nguyên nhân lục dâm xâm phạm, tình chí thất điều là những nhân tố ảnh hưởng đến vận hành của khí huyết làm cho xung nhâm trở trệ hoặc bào cung mất đi sự ôn ấm, nhu dưỡng gây thống kinh.

Khí trệ huyết ứ: nguyên nhân đa phần do uất ức hoặc cáu giận thương can, can khí uất gây khí cơ không thông là vì sự vận hành của kinh mạch được bình thường là nhờ vào sự sơ tiết và điều tiết của can khí. Khí cơ uất trệ làm cho kinh hành không thông gây trở trệ bào mạch mà thống. “Đan Khê tâm pháp” cho rằng: trên lâm sàng, khi hành kinh thì đau bụng, thắt lưng chính là do uất trệ có ứ huyết.

Hàn thấp ngưng trệ: trong kỳ hành kinh gặp mưa, lội nước, ăn phải đồ ăn sống lạnh hoặc sinh sống ở nơi ẩm thấp làm nhân tố hàn thấp xâm nhập gây tổn thương hạ tiêu. Hàn thấp trú ngụ ở hai mạch xung nhâm làm trệ tắc bào mạch gây kinh hàn không thông và gây đau bụng kinh. Trong cuốn “Cảnh Nhạc toàn thư” có nêu: hàn trệ ở kinh mạch dẫn đến ngưng kết bất thống, lưu tụ gây đau.

Thấp nhiệt ủng trệ: phụ nữ khi hành kinh bào mạch hư nhược, súc chống đỡ ngoại tà suy giảm nên thấp nhiệt thừa cơ xâm phạm hoặc tắm giặc không sạch, sinh hoạt tình dục không kiêng giữ dẫn đến thấp nhiệt xâm phạm bào trung, lưu trú ở xung nhâm, ứ kết ở bào mạch làm huyết mạch sáp trệ gây thống kinh.

Tiên thiên bẩm tố bất túc hoặc can thận hư tổn hoặc sinh hoạt tình dục không điều độ đều gây tổn hại đến can thận làm tinh huyết hao tổn; khi hành kinh thì kinh huyết hư, xung nhâm bất túc, tử cung không được nuôi dưỡng đầy đủ gây nên đau.

Khí huyết hư nhược: tỳ vị hư nhược làm ảnh hưởng đến nguồn sinh khí huyết hoặc bị bệnh lâu ngày hoặc mất máu nhiều làm cho khí huyết hư, hậu quả làm khí huyết của xung nhâm hư thiếu dẫn đến hành kinh sau kỳ; huyết hải hư, xung nhâm và tử cung mất đi sự ôn dưỡng, kèm theo khí trệ huyết ứ gây thống kinh.

BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ

Đặc điểm biện chứng

Biện chứng: khi biện chứng thống kinh cần căn cứ vào nguyên nhân, thời gian phát sinh ra đau, vị trí đau, tính chất đau, kết hợp với kỳ kinh, lượng sắc, chất kinh, lưỡi mạch, tình trạng thể chất để biện chứng hàn, nhiệt, hư, thực.

Thực chứng: lúc mới hành kinh bụng dưới đau kích liệt, sắc kinh tím thẫm, có máu cục, lượng kinh nhiều. Nếu đau nhiều hơn trướng, sắc kinh tím thẫm, có huyết cục thì phần nhiều là do huyết ứ. Nếu trướng nhiều hơn đau, kinh bài xuất không thông thường do khí trệ. Nếu đau ở bụng dưới lại kèm theo hai bầu vú tức đau là do can uất.

Hư chứng: sau khi hanh kinh bụng dưới đau ngâm ngẩm kéo dài, sắc kinh nhợt, lượng kinh ít, đau từ bụng xuyên sang lưng, kèm theo chóng mặt, tai ù, cơ thể hư nhược thì thường là thận hư.

Hàn chứng: thống kinh, đau quặn và có cảm giác lạnh, thích chườm nóng, ủ ấm, sắc kinh thường đen, có máu cục.

Nhiệt chứng: thống kinh, đau quặn và có cảm giác nóng, không thích chườm ấm, sắc kinh thường hồng tươi.

Nguyên tắc điều trị

Theo biện chứng của y học cổ truyền thì nguyên nhân bệnh sinh của thống kinh là rối loạn vận hành khí huyết ở mạch xung nhâm, tử cung với biểu hiện ra ngoài là khi hành kinh đau bụng. Cho nên, nguyên tắc điều trị lý khí huyết xung nhâm. Căn cứ vào triệu chứng cụ thể để linh hoạt vận dụng các pháp điều trị như sơ can lý khí, hoạt huyết hóa ứ, ôn kinh tán hàn, thanh nhiệt trừ thấp, điều bổ khí huyết, ích thận dưỡng can.

Hàn chứng rõ thì dùng các vị thuốc có tác dụng ôn kinh chỉ thống như ngải diệp, tiểu hồi hương, bào khương, nhục quế, ngô thù du.

Nếu có khí uất rõ thì cần dùng các vị thuốc có tác dụng hành khí chỉ thống như hương phụ, xuyên luyện tử, diên hồ sách, khương hoàng, mộc hương, chỉ xác, binh lang…

Nếu ứ trệ rõ thì dùng các vị thuốc có tác dụng hoạt huyết hóa ứ chỉ thống như xuyên khung, nhũ hương, tam thất, trầm hương, diên hồ sách, bồ hoàng, ngũ linh chi…

Cần nắm vững đặc điểm của bệnh là do hành kinh gây đau bụng nên bắt đầu đợt điều trị từ trước kinh một chu kỳ đến 1 – 2 ngày trước khi có kinh là tốt nhất, đồng thời cần chú ý “tiêu bản hoãn cấp” để điều trị.

Khi đau, cần dùng pháp chỉ thống để trị tiêu, ngoài lúc hành kinh thì cần tìm nguyên nhân để trị bản. Trước kinh và trong kỳ kinh thì hai mạch xung nhâm khí huyết thịnh nên dễ sinh ra trở trệ, cho nên cần phải dùng pháp lý khí hoạt huyết ở hành trệ; sau kỳ kinh, huyết theo kinh xuất ra, huyết hải trống rỗng nên khi điều trị cần phải dùng pháp dưỡng huyết ích khí để bổ hư.

PHÂN THỂ ĐIỀU TRỊ

1. THỂ KHÍ TRỆ HUYẾT Ứ

Lâm sàng: trước khi hành kinh hoặc kinh ngày thứ nhất, ngày thứ hai thấy bụng dưới trướng đau, không thích xoa nắn, thậm chí bụng dưới đau dữ dội lan lên ngực, nôn, ngực sườn căng đau hoặc lượng kinh ít hoặc kinh không thông, sắc kinh tím thẫm, dịch kinh có máu cục, sau khi máu cục bài xuất ra được thì đau giảm, khi sạch kinh thì hết đau, lưỡi có ban điểm ứ huyết, rêu lưỡi trắng, mạch huyền sáp hoặc huyền hoạt.

Pháp điều trị: lý khí hoạt huyết trục ứ chỉ thống.

Bài thuốc: Cách hạ trục ứ thang (Y lâm cải thác).

Đương quy  12g, Ngũ linh chi  06g, Diên hồ sách  06g, Xuyên khung  12g, Đan bì  12g, Chỉ xác  10g, Xích thược  12g, Ô dược  06g, Đào nhân  10g, Cam thảo  10g, Hương phụ  10g, Hồng hoa  10g.

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang, chia làm 02 lần.

Trong bài thuốc trên thì đào nhân, hồng hoa, có tác dụng hoạt huyết hóa ứ. Diên hồ sách, ngũ linh chi là thuốc hóa ứ chỉ thống, giúp cho đương quy dưỡng huyết hòa huyết. Xuyên khung, xích thược, đan bì có tác dụng hoạt huyết hành ứ. Chỉ xác, ô dược, hương phụ có tác dụng lý khí. Cam thảo có tác dụng điều hòa tính dược.

Nếu miệng đắng, rêu lưỡi vàng, sắc kinh tím thẫm, chất kinh nhầy nhớt là do can khí uất hó nhiệt gây nên thì gia chi tử 15g, hạ khô thảo 12g, ích mẫu thảo 12g để tăng cường tác dụng thanh tiết can nhiệt.

Nếu ngực sườn đầy tức, ăn kém là do can uất thương kỳ thì gia kê nội kim 10g, phục linh 12g, trần bì 12 để kiện tỳ ích khí.

Nếu đau nhiều, buồn nôn là hiện tượng của can khí xâm phạm tỳ vị thì gia thêm ngô thù du 06g, sinh khương 12g để hòa vị giáng nghịch.

Châm cứu: châm tả các huyệt Khí hải, Thái xung, Khúc tuyền, Tam âm giao.

HÀN NGƯNG BÀO TRUNG

2. DƯƠNG HƯ NỘI HÀN

Lâm sàng: trong kỳ kinh hoặc sau kỳ kinh thấy bụng dưới đau nhiều, thích ủ ấm, thích xoa nắn, lượng kinh ít, sắc kinh tím nhợt, kinh có lẫn máu cục, đau lưng, tiểu tiện trong, chất lưỡi nhợt bệu, hai bên rìa lưỡi có ấn răng, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch trầm.

Pháp điều trị: ôn kinh phù dương, ấm doanh chỉ thống.

Bài thuốc: Ôn kinh thang (Kim quỹ yếu lược) bỏ a giao, mạch môn và giao phụ tử chế, ngải diệp, tiểu hồi hương.

Ngô thù du  06g, Đương quy  12g, Bạch thược  12g, Xuyên khung  12g, Nhân sâm  06g, Quế chi  10g, Đan bì  12g, Sinh khương  06g, Bán hạ  10g, Cam thảo  10g, Phụ tử  06g, Ngải diệp  15g, Tiểu hồi hương  06g.

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.

Trong bài thuốc trên thì ngô thù du, quế chi có tính vị cay nóng; có tác dụng ôn kinh phù dương để tán hàn, thông mạch để chỉ thống. Đương quy, xuyên khung, đan bì có tác dụng hoạt huyết khứ ứ, dưỡng huyết điều kinh. Bạch thược phối hợp với cam thảo có tính vị chua ngọt; có tác dụng dưỡng huyết hòa doanh, hoãn cấp chỉ thống. Nhân sâm, sinh khương, bán hạ có tác dụng ích khí ôn trung hòa vị để tăng cường nguồn hóa sinh huyết dịch.  Phụ tử, ngải diệp, tiểu hồi hương để tăng cường tác dụng ôn thận ấm doanh, tán hàn chỉ thống.

Nếu dương hư, thấp trọc nội sinh kết hợp với ứ huyết ở bào cung gây hành kinh có máu cục, bụng dưới lạnh đau, tay chân lạnh thì bài thuốc trên bỏ quế chi và thay bằng nhục quế 05g và gia tam lăng 12g, nga truật 12g.

Châm cứu: châm bình bổ bình tả kết hợp với các huyệt Trung cực, Thủy đạo, Địa cơ, Tam âm giao.

3. HÀN THẤP NGƯNG TRỆ

Lâm sàng: kinh trước kỳ vài ngày hoặc trong khi hành kinh thì đau bụng dưới, thích chườm ấm, ấn đau tăng, kinh ra số lượng ít, sắc kinh đen hoặc có huyết cục, gặp lạnh đau tăng, chất lưỡi tím nhợt, rêu lưỡi trắng nhớp, mạch trầm khẩn.

Pháp điều trị: ôn kinh tán hàn, hóa ứ chỉ thống.

Bài thuốc: Thiếu phúc trục ứ thang gia thương truật, phục linh.

Tiểu hồi hương  05g, Can khương  06g,  Diên hồ sách  10g, Một dược  05g, Đương quy 12g, Xuyên khung  12g, Quế nhục  05g, Xích thược  12g, Bồ hoàng  12g, Ngũ linh chí  06g, Thương truật  12g, Phục linh  12g.

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.

Trong bài thuốc trên thì nhục quế, tiểu hồi hương, can khương có tác dụng ôn kinh tán hàn. Diên hồ sách, ngũ linh chi, bồ hoàng, một dược có tác dụng hóa ứ chỉ thống. Đương quy, xuyên khung, xích thược có tác dụng dưỡng huyết hoạt huyết hành ứ. Thương truật có tác dụng hóa thấp hóa trọc. Phục linh có tác dụng kiện tỳ thấm thấp.

4. THỂ THẤP NHIỆT Ứ TRỆ

Lâm sàng: trước kinh hoặc đang hành kinh bụng dưới đau, không thích xoa nắn hoặc nhiệt tà xâm nhập làm đau tăng vùng thắt lưng cùng, vùng bụng dưới; sắc mặt hồng, kinh hành có máu cục hoặc hành kinh lượng nhiều, sắc kinh vàng, dịch kinh đặc và mùi hôi, nước tiểu tiện vàng, đại tiện khó, chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoãn sác.

Pháp điều trị: thanh nhiệt trừ thấp, hành trệ chỉ thống.

Bài thuốc: Thanh nhiệt điều kinh thang (Cổ kim y giám)

Hoàng liên  09g, Nga truật  12g, Hương phụ  12g, Hồng hoa  09g, Sinh địa  12g, Xích thược  12g, Xuyên khung  08g, Huyền hồ  10g, Đương quy  12g, Đan bì  12g, Đào nhân  10g.

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.

Trong bài thuốc trên thì hoàng liên có vị đắng, tính lạnh; có tác dụng thanh tả tâm hỏa, thanh nhiệt táo thấp. Xuyên khung, đương quy, sinh địa, xích thược, đào nhân, hồng hoa (Đào hồng tứ vật thang) có tác dụng dưỡng huyết, hoạt huyết hóa ứ, khai thông huyết mạch. Hương phụ, đan bì, huyền hồ, nga truật có tác dụng hành khí hoạt huyết để trợ giúp cho hoàng liên thanh nhiệt trừ thấp, hành trệ chỉ thống.

Nếu đau nhiều vùng thắt lưng cùng thì gia tục đoạn 10g, cẩu tích 12g, tần giao 12g.

Nếu thấp trệ nặng thì gia ý dĩ nhân 12g, thổ phục linh 15g để tăng cường lợi thủy thấm thấp.

Châm cứu: châm tả các huyệt Trung cực, Thứ liêu, Huyết hải, Âm lăng tuyền.

5. KHÍ HUYẾT HƯ NHƯỢC

Lâm sàng: sau khi hành kinh 1 – 2 ngày hoặc đang trong kỳ kinh bụng dưới đau âm ỉ, thích chườm ấm và xoa nắn, lượng kinh ít, sắc kinh nhợt, chất kinh trong loãng, mệt mỏi, sắc mặt vàng, ăn ít, đại tiện phân nát, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch tế nhược.

Pháp điều trị: bổ khí dưỡng huyết, hòa doanh chỉ thống.

Bài thuốc; Thánh dũ thang bỏ sinh địa và gia bạch thược, hương phụ, diên hồ sách.

Nhân sâm  06g, Đương quy  12g, Hoàng kỳ  20g, Xuyên khung  12g, Bạch thược  15g, Hương phụ  12g, Diên hồ sách  12g.

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.

Trong bài thuốc trên thì nhân sâm, hoàng kỳ để bổ khí. Xuyên khung, đương quy, bạch thược để dưỡng huyết hoạt huyết. Hương phụ, diên hồ sách để điều khí chỉ thống.

Nếu huyết hư kết hợp với can uất gây đau tức mạn sườn, hai vú căng đau, bụng dưới đau thì gia xuyên luyện tử 06g, sài hồ 12g, tiểu hồi hương 10g, ô dược 08g để sơ can lý khí chỉ thống.

Nếu chứng huyết hư nặng gây đau đầu, chóng mặt, hồi hộp thì gia kê huyết đằng 12g, đại táo 15g, táo nhân 10g, hà thủ ô 15g để tăng cường bổ huyết, dưỡng tâm an thần.

Nếu bệnh lâu ngày ảnh hưởng đến thận hoặc bệnh nhân vốn thể tạng hư nhược thì gia thỏ ty tử 15g, tục đoạn 5g, tang ký sinh 15g để bổ thận dương cường cân cốt.

Hoặc dùng bài Thập toàn đại bổ (Truyền tin thích dụng phương).

Bạch truật  09g, Cam thảo  03g, Thục địa  12g, Nhân sâm  06g, Hoàng kỳ 12g, Xuyên khung 06g, Đương quy 09g, Bạch thược  09g, Quế nhục  03g, Bạch linh  12g.

Bài thuốc trên, các vị tán nhỏ, mỗi lần dùng 09g; hòa với nước sắc sinh khương 03 lát, đại táo 02 quả để uống.

Bài thuốc trên được cấu tạo từ bài Bát trân thang gia hoàng kỳ, quế nhục. Bài Bát trân thang có tác dụng điều bổ khí huyết. Hoàng kỳ, đại táo có tác dụng tăng cường kiện tỳ ích khí để sinh huyết. Quế nhục có vị cay, ngọt, tính rất nóng; nhập kinh tâm, thận, can, tỳ; có tác dụng bổ hỏa trợ dương, tán hàn chỉ thống, ôn kinh thông mạch. Sinh khương có vị cay, tính ấm; có tác dụng ôn giải biểu thông kinh hoạt lạc, hòa trung giáng nghịch, trợ giúp nhục quế thông dương, làm tan sự ngưng trệ khí huyết để nhu dưỡng kinh mạch chỉ thống. Như vậy, tác dụng chung của bài thuốc là làm cho khí huyết đầy đủ, khí huyết của hai mạch xung nhâm vận hành thông suốt thì đau bụng kinh tự hết.

Nếu tinh huyết hư nhược thì gia câu kỷ tử 12g, sơn thù du 12g, thỏ ty tử 12g để bổ dưỡng tinh huyết.

Nếu người bệnh đau bụng kinh kèm theo có đau ngực sườn, hai bầu vú trướng đau là do khí hư hiệp can uất thì gia xuyên luyện tử 06g, sài hồ 12g, tiểu bối hương 12g để sơ can lý khí chỉ thống.

Nếu thống kinh kém theo hoa mắt chóng mặt, ngủ ít thì gia dạ giao đằng 12g, toan táo nhân 12g hà thủ ô chế 15g để bổ huyết an thần.

6. CAN THẬN HƯ TỔN

Lâm sàng: hành kinh ra màu tím nhạt, lượng kinh ít, chất kinh loãng; sau khi sạch kinh 1 – 2 ngày bụng dưới đau âm ỉ, đau thắt lưng, cơ thể gầy, hoa mắt, chóng mặt, sốt từng cơn, tai ù, chất lưỡi hồng nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế nhược.

Pháp điều trị: điều bổ can thận, trấn tinh bổ huyết.

Bài thuốc: Điều can thang (Bác thanh chủ nữ khoa).

Sơn thù du  10g, A giao  12g, Ba kích  12g, Hoài sơn  12g, Đương quy  15g, Cam thảo  10g, Bạch thược 12g.

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.

Trong bài thuốc trên thì sơn thù du, ba kích có tác dụng dưỡng can thận, ích xung nhâm. Đương quy, bạch thược có tác dụng dưỡng huyết nhu can, phối hợp với cam thảo để hoãn cấp chỉ thống. A giao có tác dụng tư âm dưỡng huyết. Hoài sơn có tác dụng bổ thận kiện tỳ ích khí.

Nếu thống kinh đau từ bụng dưới lan đến eo lưng thì gia tục đoạn 12g, đỗ trọng 12g.

Nếu đau hai bên bụng dưới kèm theo đau tức ngực sườn là do can uất gây nên thì gia xuyên luyện tử 06g, diên hồ sách 12g, tiểu hồi hương 12g, uất kim 08g để tăng cường sơ can lý khí.

Châm cứu: châm bổ và kết hợp với cứu các huyệt Thận du, Chiếu hải, Quan nguyên, Can du, Túc tam lý.

KẾT LUẬN

Nguyên nhân thống kinh bao gồm:

Khí trệ huyết ứ: thường do uất ức hoặc cáu giận thương can, can khí uất làm vận hành khí không thông, trở trệ bào mạch gây đau.

Hàn thấp ngưng trệ: trong kỳ kinh gặp mưa, lội nước, ăn phải đồ ăn sống lạnh hoặc sinh sống ở nơi ẩm thấp thì nhân tố hàn thấp làm tổn thương hạ tiêu, trú ngụ ở xung nhâm làm trở trệ tắc bào mạch gây kinh hành không thông nên thấy đau.

Thấp nhiệt ủng trệ: trong kỳ kinh thì mạch ở bào cung hư nhược, sức chống đỡ ngoại tà suy giảm, nhân tố thấp nhiệt thừa cơ xâm phạm hoặc tắm giặc không sạch, sinh hoạt tình dục không kiêng giữ dẫn đến thấp nhiệt xâm phạm bào trung, lưu trú ở xung nhâm dẫn đến ứ kết bào mạch làm huyết mạch sáp trệ gây thống kinh.

Tiên thiên bẩm tố bất túc hoặc can thận hư tổn hoặc sinh hoạt tình dục không điều độ…gây tổn hại đến can thận làm tinh huyết hao tổn; khi hành kinh thì kinh huyết hư, xung nhâm bất túc, tử cung không được nuôi dưỡng đầy đủ gây nên đau.

Khí huyết hư nhược làm khí huyết của xung nhâm ít, dẫn đến hành kinh sau kỳ, huyết theo kinh đi xuống nên huyết hải hư, mạch xung nhâm và tử cung mất đi sự ôn dưỡng gây thống kinh.

Về điều trị: theo biện chứng của y học cổ truyền, thống kinh là biểu hiện bệnh lý của mạch xung nhâm, tử cung, khí huyết ứ trệ nên thấy hành kinh đau bụng. Cho nên, pháp điều trị chủ yếu là điều lý xung nhâm khí huyết. Căn cứ vào triệu chứng cụ thể mà linh hoạt vận dụng pháp sơ can lý khí, hoạt huyết hóa ứ, ôn kinh tán hàn, thanh nhiệt trừ thấp, điều bổ khí huyết, ích thận dưỡng can.

Bài thuốc mang tính chất tham khảo độc giả không được tự ý bốc thuốc uống. Khi cần nên gặp bác sĩ đông y để được tư vấn và khám bệnh

Quý khách có nhu cầu khám và tư vấn miễn phí vui lòng liên hệ

THIỆN MINH Y QUÁN – Y Học Cổ Truyền

Địa chỉ: B14/12/9 Cây Cám, Ấp 1B, Vĩnh Lộc B, TPHCM

ĐT & Zalo: 0904 890 895

Email: thienminhyquan88@gmail.com

Webiste: www.thienminhyquan.com

 

 

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *