Facebook 08h00 - 20h00 hằng ngày
Zalo 08h00 - 20h00 hằng ngày
Gọi ngay
0904 890 895 08h00 - 20h00 hằng ngày
Home

Đông y trị ung thư vú

Đông y trị ung thư vú

Về bệnh học, ung thư vú là một bệnh có liên quan đến tuyến nội tiết, cho nên đàn ông hay đàn bà đều có thể mắc bệnh như nhau. Tuy nhiên, dựa vào giới tính và tỷ lệ bách phân, đàn bà bị ung thư vú đến 99%. Do đó, khi đề cập đến bệnh ung thư vú, người ta nghĩ đến một trong những căn bệnh đàn bà, thứ hai là bệnh ung thư cổ tử cung.

Tại Hoa Kỳ, mỗi năm có thêm 185.000 phụ nữ mắc bệnh ung thư cú, trong đó có trên 50.000 người chết vì căn bệnh quái ác này. Độ tuổi dễ mắc bệnh nhất từ 35 đến 54 tuổi. Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ (The American Cancer Society), cứ 9 phụ nữ thì có 1 người bị ung thư vú trước tuổi 85. Tuy nhiên, phụ nữ chết do ung thư vú ngày càng có khuynh hướng sụt giảm đôi chút nhờ thăm khám thường xuyên, phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Thống kê năm 1989 ghi nhận, cứ 100.000 phụ nữ bị ung thư vú thì có tới 27,5% người chết, tức 27.500 người. Đến năm 1993, tỷ lệ tử cong hạ xuống còn 25,9% tức 25.900 người, giảm được 1.600 người trong vòng 4 năm.

1. Giải phẫu học:

Nhìn vào hình, chúng ta thấy tuyến vũ nằm trên những cơ ngực lớn và cơ ngực nhỏ. Từ đây, các đường bạch huyết toả đi khắp nơi.

Có 3 đường bạch huyết chính đi qua các trạm hạch: Nách ngực và vú trong. Các nhà khoa học cho rằng hạch bạch huyết (lymph node) đóng vai trò then chốt, giúp cho sự tiên lượng trong chẩn đoán càng thêm giá trị. Với các liệu pháp trợ lực, các nhà nghiên cứu ghi nhận phụ nữ nào bị ung thư vú mà không kèm theo hạch bạch huyết sẽ có cơ may sống trên 10 năm, đạt tỷ lệ tới 70 – 75% so với 20 – 25% nếu có sự hiện diện của hạch bạch huyết.

Điều đáng chú ý là ung thư vú cũng có thể hình thành bất cứ lúc nào đối với các thiếu nữ sau tuổi dậy thì (pubety) nhưng hầu hết qui tụ vào giai đoạn từ 50 tuổi trở lên.

2. Nguyên nhân:

2. Theo Y Học Hiện Đại:

Chưa ai biết rõ ung thư vú từ đâu ra, nhưng kích thích tố estrogen ở phụ nữ được coi là hệ quả cao nhất, một nhân tố đích xác dẫn tới căn bệnh quái ác không chút hoài nghi. Sau đây là những nguy cơ cao nhất tạo ra ung thư vú ở phụ nữ:

– Do rối loạn estrogen, một loại hormone nữ.

– Thời kỳ kinh nguyệt (mense) dài. Tuổi có kinh quá sớm lại tắt kinh quá trễ.

– Không bao giờ thụ thai (pregnant) sinh sản.

– Lần đầu mang thai sau 31 tuổi.

– Đã có ung thư ở một bên vú.

– Lịch sử gia đình (family hostory) có người bị ung thư vú.

– Đã có ung thư áo niêm mạc tử cung (endometrial cancer).

– Đã có ung thư buồng trứng (evarian cancer).

– Đã từng được điều trị bằng tia ion hoá (tomzed adiation) với mức độ thấp.

Ngoài ra, còn nhiều nhân tố khác cũng dẫn tới nguy cơ bị ung thư vú nhưng ít nghiêm trọn hơn, gồm có:

– Kích thích tố liệu pháp (estrogen therapy).

– Các phương pháp trị tăng huyết áp (antihypertensives).

– Ăn uống quá nhiều chất béo (high – fat diet).

– Béo phì (obesity).

– Có bệnh u xơ nang vú (fibrocystic disease of the breasts).

– Có thai trước 20 tuổi.

– Đã từng mang thai nhiều bào thai (multiple pregnancies).

– Thuốc sắc dân Ấn Độ (Indian) và Á Châu (Asian).

Sinh lý bệnh học (Pathophysiology)

Ung thư vú phần lớn xảy ra ở vú bên trái nhiều hơn bên phải và cũng thường tích tụ ở phần trên góc ngoài bầu vú. Về sinh lý bệnh học, tốc độ phát triển của ung thư vú không đồng nhất về thời gian cũng như về hình dáng và tính chất, chậm hay nhanh, to hay nhỏ, lành tính hay ác tính không thể biết trước được. Đa số ung thư vú mọc chậm ở 8 năm đầu, cụ thể là có một khối u nhỏ đường kình cỡ 1cm, có thể sờ thấy, không đau. Từ 4 – 6 tháng, khối u có thể lớn gấp đôi. Nó bành trướng theo con đường của hệ thống bạch huyết và dòng máu, xuyên thấu qua bên phải tìm tới phổi và cuối cùng lan tới vùng vú bên kia, trùm phủ hết thành ngực, xâm nhập gan xương và lên tới cả não.

Nhiều cuộc khảo sát ước lượng tỷ lệ phát triển của ung thư vú tăng nhanh gấp đôi ở giai đoạn sau cùng khi nó biến thành tế bào ác tính (malignant cells). Thời gian sống sót của bệnh nhân tuỳ thuộc vào kích thích của khối u (tumor) và sức bành trướng ra ngoài. Số lượng các hạch (nodes) liên đới là nhân tố đơn giản và quan trọng nhất để tiên lượng thời gian còn sống.

Xếp dạng theo mô học và theo vị trí thương tổn, ung thư vú có thể là

– Ung thư tuyến (adenocarcinoma) bởi tạo ra từ biểu mô (epithelium).

– Trong ống tuyến (intraductal) do thành lập bên trong ống tuyến (ducts) vú).

– Thâm nhiễm (infitrating) vì xảy ra trong nhu mô (parenchymal tissue) vú.

– Viêm, sưng (infammatory), phản ánh tình trạng khối u lớn nhanh khiến da trở nên sưng phù, viêm và cứng rắn. Tuy nhiên, trường hợp này rất hiếm.

– Ung thư tiểu thuỳ (lobular carcinoma), phản ánh khối u phát triển liên hệ đến các thuỳ (lobes) bên trong mô tuyến (glandular tissue) vu.

– Tuỷ (medullary) hoặc khoanh vùng (circumscribeb), chỉ khối u to và tỷ lệ phát triển nhanh.

Cách xếp hạng theo mô học giúp các nhà nghiên cứu hiểu rõ và đánh giá chính xác hơn về bệnh ung thư vú.

Dấu hiệu và triệu chứng:

Những dấu hiệu đáng lưu ý nhất về bệnh ung thư vú có thể là:

– Một cục u, một cái bướu hay khối rắn như đá nổi lên bên trong vú. Hãy chú ý, khối rắn như đá thường là ác tính (malignant).

– Một sự biến đổi về lớp da bọc lót vú, như da dày lên, da xung quanh núm vú (nipple) sần sùi nổi vảy, da lúm đồng tiền, da sưng phù hoặc lở loét.

– Một sự đột biến bên trong da, như ấm bên bất thường, da nóng, một vùng da bị đỏ hồng.

– Tình trạng dẫn lưu (drainage) hoặc tiết sữa không bình thường trong thời kỳ mang thai hay cho con bú. Nếu một bên vú không tiết ra sữa khi sinh con, có thể là chỉ dấu của bệnh ung thư vú.

– Một sự biến đổi bên trong núm vú, như ngứa, nóng bỏng, bị ăn mòn, bị rụt vào.

– Cảm thấy đau vú. Tuy nhiên, không hẳn là dấu hiệu của ung thư vú trừ phi khối u ngày càng to lên. Cần có sự nghiên cứu tỉ mỉ mới xác định được.

– Di căn vào xưng gây gãy xương bất cứ lúc nào kèm tăng calci – huyết (hypercale enia)+

– Di căn vào phổi gây khó thở, tràn dịch màng phổi (phổi có nước)

– Gan sưng to, sưng phù cánh tay.

Chẩn đoán (Diagnosis):

Tiêu chuẩn chẩn đoán về ung thư vú gồm có các phương pháp:

– Tự khám bằng tay:

Xưa nay, cách khám phá ung thư vú bằng tay vẫn được coi là phổ biến nhất và đáng tin cậy nhất, phương pháp khá đơn giản.

Nên thực hiện giữa chu kỳ kinh nguyệt vì lúc đó tuyến vú không bị ảnh hưởng bởi nội tiết tố. Trước hết, cởi áo và đứng dậy trước gương soi. Nhìn vào gương quan sát thật kỹ, so sánh xem hai bên bầu vú có gì khác thường hay không. Sự khác thường gồm: da không đồng màu, độ cứng mềm khác nhau, một bên tròn một bên độn lệch.

Tiếp theo, nằm ngửa trên giường thật phẳng, lót một chiếc gối dưới lưng ngang bằng bã vai để ngực ưỡn lên cao. Đặt một cánh tay lên đầu, duỗi thẳng. Dùng 4 ngón tay của bàn tay bên này đặt lên bầu vú bên kia, vừa rà soát vừa chuyển dịch chầm chậm các ngón tay quanh vú theo hình xoắn ốc, khởi đi từ rìa ngoài tiến dần vô trung tâm vú. Hãy chú ý đến những nơi có dấu hiệu cứng, cộm, khối u to nhỏ, cảm giác đau hay không đau. Sau đó, thay đổi thao tác để tiếp tụ khám phần vú còn lại.

Bình thường, vú mềm đều. Nếu khám thấy dấu hiệu khác thường, nên nhanh chóng tham khảo với Bác sĩ gia đình. Điều cần nhớ, không phải khối u nào nằm trong vú cũng là ung thư. Khối u có thể do vị viêm hay u lành tính gồm: viêm cấp tính, viêm mãn tính. Do lao phổi, do bệnh giang mai, do nấm, viêm ở tuổi dậy thì, vú bị áp xe trong thời kỳ cho con bú, u tuyến vú trước lúc hành kinh… Bác sĩ chuyên khoa sẽ giúp chẩn đoán và giải thích, không nên đoán mò hay lo sợ.

Thực tế, tự khám vú bằng tay, trước đây cho rằng phương pháp này sẽ cứu được sinh mạng bệnh nhân nhờ phát hiện sớm khối u ung thư, nhưng các cuộc nghiên cứu mới nhất công bố rằng suy nghĩ ấy không đúng. Bởi vì ung thư vú không phát triển đều đặn theo thời gian. Nó có thể bành trướng thật nhanh rồi ngưng lại. Một số khối u phát triển tuần tự, trong khi một số khác lại mọc rất chậm. Có khối u di căn khỏi vú thật nhanh nhưng có khối u phải đợi lớn bằng quả cam hay quả bưởi mới bắt đầu di căn, trong lúc có khối u chăng bao giờ chịu di căn ra ngoài. Do đó không mấy ai tiên lượng khối u. Hơn nữa, vào lúc người bệnh sờ thấy khối ung thư nằm trong thành vú thì hầu hết nó đã xuất hiện trước đó 5 – 7 năm rồi, nếu di căn thì khối ung thư cũng đã di căn rồi. Như vậy, vấn đề là phương pháp chữa trị hiệu quả hay không hiệu quả nhằm cứu tính mạng bệnh nhân chứ không do thời gian phát hiện sớm hay muộn. Dẫu sao, phát hiên sớm ung thư vẫn lợi hơn là muộn.

– Chụp X – ray và sinh thiết (Mammography and Biopsites).

Chụp quang tuyến X vú là phương pháp khảo sát đối với bất kỳ phụ nữ nào đã có chỉ dấu bị ung thư qua chẩn đoán. Căn bản, mammography được thực hiện cho các phụ nữ từ 35 đến 39 tuổi. Từ 40 đến 40 tuổi, mỗi lần 1 – 2 năm chụp 1 lần. Trên 50 tuổi, chụp hằng năm. Phụ nữ nào có lịch sử gia đình bị ung thư vú hoặc một bên đã bị ung thư, cần quan tâm đạc biệt thì họ dễ có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú hơn những người khác. Riêng phụ nữ dưới 35 tuổi, tín lực mammography rất đáng nghi ngờ vì mô vú có cấu trúc dày đặc, khó quyết đoán. Khối u ung thư cũng là mô, cũng là những vệt trắng trên phim, có thể bị nách che khuất, có thể do nếp da vú bọc lót, không thấy hiện ra. Đến khi phát giác được thì bướu đã to và di căn qua các cơ quan khác từ lâu.

Kết quả sai sót và lầm lỗi của phương pháp chụp mamography là 30% trên tất cả cuộc kiểm tra. Bác sĩ Stephen Feig thuộc bệnh viện trường Đại học Thomas Jeffrson Tiểu Bang Philadelpia Hoa Kỳ cho biết, cách đây 20 năm, việc chụp X – ray và khám lâm sàng chỉ phát hiện được khoảng 40% phụ nữ bị ung thư vú ở độ tuổi từ 40 – 49 và khoảng 60% ở độ tuổi từ 50 – 59 tuổi. Hiện nay, nhờ kỹ thuật số digital mammography, có thể phát hiện trên 90% phụ nữ bị ung thư vú ở bất kỳ độ tuổi nào. Đây là phương pháp truy tầm ung thư vú hiện đại nhất cuối thế kỷ 20.

– Phương pháp siêu âm (ultrasonography):

Dùng để kiểm tra lại hình ảnh nghi ngờ trên phim mammography, có thể nhận biết cả khối u dưới hình thái một cái túi (cyst) chứa đầy chất dịch. Phương pháp siêu âm được sử dụng để chẩn đoán ung thư vú thay vì phải dùng phương pháp sinh thiết (surgical biopsy) xâm phạm đến cơ thể.

– Phương pháp tạo mạch (angiogenesis):

Dùng kỹ thuật soi sáng mạch máu để tìm ra mạch máu nào tiếp sức nuôi lớn khối ung thư rồi tìm cách khử bỏ. Phương pháp này cũng phát hiện kích thước khối u, dù mới thành hình hay đã lớn. Tất nhiên, khám phá vẫn là khám phá, không giải quyết được gi khi khối u đã di căn từ lâu.

– Phương pháp rửa ống tuyến (ductal lavage):

Dùng một ống thông thật nhỏ luồn vào tuyến dẫn sữa trong vú, nơi nghi ngờ bị khối u bít lấp, rồi bơm nước vào để tống các tế bào ung thư ra. Phương pháp này được dùng riêng cho các bệnh nhân có nguy cơ bị ung thư cao hơn những người bình thường, giúp họ quyết định chọn lựa cách trị liệu phòng ngừa, uống thuốc hay giải phẫu cắt bỏ vú.

– Khảo sát xương (bone scan):

Dùng X – ray chụp cắt lớp xương để tính toán và đo lường về mức độ alkaline phosphate, nghiên cứu chức năng gan và sinh thiết gan nhằm phát hiện tình trạng ung thư di căn xa hay gần. Xét nghiệm thụ thể (receptor) hormone trên khối u cũng có thể xác định khối u lệ thuộc vào estrogen hay prigesterone nhằm giúp các nhà chuyên môn quyết định giải pháp phong toả hormone đã có hành động tiếp tay nuôi dưỡng khối u lớn lên.

– Phương pháp nhiệt kế (thermography):

Dùng phép chụp nhiệt bức xạ để truy tầm u bướu nhờ phản xạ hơi nóng do u bướu tảo ra. Tuy nhiên, phương pháp chẩn đoán này không mấy tin cậy vì nhiều thương tổn trong vú cũng có thể toả sức nóng như ung thư nên ít được trọng dụng

1. Theo Đông Y Học:

Trong vòng 40 năm trở lại đây Đông Y Học đã tiến hành nhiều đề tài nghiên cứu Đông dược để chữa bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư vú rất thành công. Các nhà ung thư học phương Tây cũng bắt đầu chú ý đến những báo cáo điều trị ung thư bằng dược thảo, trong đó phương pháp nâng cao hệ miễn dịch của Trung Y được đánh giá có ý nghĩa nhất, vừa gia tăng sức đề kháng cơ thể vừa tiêu trừ tế bào ung thư một cách hoà bình.

Về nguyên nhân và chẩn đoán bệnh ung thư vú, lý luận của Đông Y Học dựa trên học thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, tạng tượng, tình chí, nhưng xử phương hoàn phù hợp với mục tiêu y học.

Sau đây là một số bài thuốc Đông Y trị ung thư vú tiêu biểu:

Bài 1: “Công anh thang” của Bệnh viện tỉnh Liêu Ninh Trung Quốc

          Bồ công anh 10g; Địa đinh thảo 10g; Chích viễn chí 10g; Quan quế 10g; Qua lâu nhân 60g; Xuyên sơn giáp (sao) 06g; Thiên hoa phấn 06g; Xích thược 06g; Cam thảo 06g; Hạ khô thảo 15g; Kim ngân hoa 15g; Sinh hoàng kỳ 15g; Bạch chỉ 15g; Kiết cánh 15g; Phi bạch đầu 15g; Đương qui 30g.

Sắc uống 1 ngày 1 thang.

Gia giảm:

– Di căn hạch, gia thêm Sinh ý dĩ nhân 30g, Hải tảo 15g, Sinh mẫu lệ 24g, Huyền sâm 24g.

– Ung thư lở loét, bỏ Bồ công anh, Địa đinh thảo, gia Hoàng kỳ lên 30g.

– Người yếu, hay ra mồ hôi, tăng Hoàng kỳ lên 30g.

– Miệng khô, hay táo bón, gia Chỉ thực 10g, Thanh bì 10g.

– Sợ lạnh, đau lưng, ra huyết trắng, tay chân mát, tăng Quan quế lên 18g.

– Mặt đỏ, sốt, nóng hầm, gia Hoàng cầm 10g, Hoàng liên 10g, Sài hồ 15g.

Thuốc đắp ngoài:

– Ngũ linh chi 15g, Hùng hoàng 15g, Mã tiền tử 15g, A giao 15g, Tán bột mịn, mỗi lần lường 1 – 2 muỗng canh bột trộn với dầu mè nắn thành cái bánh đắp lên khối u, ngoài băng kín. Ngày thay thuốc 1 lần.

Kết quả: Trị 18 ca ung thư vú, lành bệnh 6 ca, khả quan 6 ca (khối u nhỏ hơn phần nửa).

Bài 2: “Ngưu hoàng tiêu thũng phương” của khoa ung thư Bệnh viện Quảng An Môn thuộc Viện nghiên cứu Trung Y Bắc Kinh.

          Ngưu hoàng nhân tạo 10g; Chế nhũ hương 15g; Chế một dược 15g; Hải long 15g;  Hoàng kỳ 30g;  Sơn tử cô 30g; Hương duyên 30g; Tam tiên (sao) 30g; Hạ khô thảo 60g; Tam thất phấn 60g; Hà thủ ô 60g; Ý dĩ nhân 60g; Địa đinh thảo 60g; Nga truật 60g; Dâm dương hoắc diệp 60g.

Cách làm: tán bột mịn, trộn với hồ loãng làm hoàn nặng 3g. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 hoàn.

Gia giảm:

– Can khí uất, gia Sài hồ 8g, Thanh bì 8g, Xích thược 12g, Bạch thược 12g, Uất kim 10g.

– Tỳ hư, đàm thấp, gia Bạch phục linh 20g, Bạch truật 12g, Trần bì 8g, Chế bán hạ 12g.

– Khí huyết lưỡng hư, gia Đảng sâm 30g, Đương qui 20g, A giao 10g, Kê huyết đằng 16g.

Kết quả: Trị 134 ca ung thư vú, trong đó 16 ca có phẫu thuật, một số khác có phối hợp hoá trị và xạ trị. Sau điều trị, tỷ lệ sống trên 5 năm 88,8%.

Bài 3: “Hải tảo trinh ngân thang” của Bệnh viện ung thư Trường Đại Học Y Khoa Thượng Hải Trung Quốc.

          Hải tảo 30g; Hải đới 30g; Nữ trinh tử 15g; Kim ngân hoa 15g; Phục linh 12g; Câu kỷ tử 12g; Thạch hộc 12g; Thái tử sâm 09g; Thảo quyết minh 30g; Đan sâm 15g; Trần bì 15g; Thục địa 15g.

Sắc uống ngày 1 thang. Nước nhất, đổ 4 bát nước, sắc còn 1 bát chia uống 2 lần cách nhau 4 – 6 tiếng đồng hồ. Nước nhì, đổ 3 bát nước, sắc còn 7/10 bát, uống 1 lần.

Kết quả: Trị 6 ca ung thư vú. Sau điều trị, khối u biến mất hoặc nhỏ lại. Tất cả đều sống trên 3 năm.

Bài số 4: “Mã tiên phong phong hoàn” của Y Sĩ Lôi Vĩnh Trong thuộc Bệnh viện Thử Quang Học Viện Trung Y Thượng Hải Trung Quốc.

          Mã tiền tử 0.1g; Hoạt oa ngưu (ốc sên) 0.5g; Ngô công (con rết) 1.5g; Lộ phòng phong 0.5g; Toàn yết (con bò cạp) 0.3g; Nhũ hương 0.1g.

Cách làm: Trên đây là liều dùng cho 1 ngày. Muốn uống 10 – 20 – 30 ngày, cứ nhân số lượng thuốc lên tương ứng. Tán bột mịn, dùng hồ loãng làm hoàn nặng 1g, phơi hay sấy khô để dùng dần. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 hoàn.

Kết quả: Trị 44 ca ung thư vú. Có 7 ca sống trên 3 năm.

Bài 5: “Nhị đơn thang” của Bệnh viện Nhân Dân số 1 Phúc Châu Tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc.

          Đương qui 45g; Hạ khô thảo 45g; Quất hạch 12g; Bạch chỉ 09g; Bạch cương tầm 06g; Mẫu đơn bì 06g; Đan sâm 15g.

Sắc uống ngày 1 thang. Nước nhất, đổ 3 bát nước, sắc còn 8/10 bát, chia uống 2 lần. Nước nhì, đổ 2 bát nước, sắc còn 5/10 phát, uống 1 lần.

Kết quả: Trị 1 ca ung thư đầu vú. Sau điều trị, bệnh lành hoàn toàn.

Chọn chất dịnh dưỡng hữu ích

Becta – carotene thiên nhiên: 10.000 IU/ngày. Công dụng: Phá huỷ gốc tự do (free radicals) nhờ tính năng chống oxy hoá mạnh.

Tỏi (garlic) ngày 3 lần, mỗi lần 2 viên capsules. Công dụng: nâng cao chức năng miễn dịch cơ thể.

Selenium: 200 – 400mg/ngày. Công dụng: Lau chùi gốc tự do rất mạnh

Vitamin B complex: 100mg, ngày 3 lần. Công dụng: cải thiện tuần hoàn, sản xuất hồng cầu, trợ giúp chức năng gan, tạo hormone và enzyme.

Vitamin C: 5.000 – 20.000mg/ngày. Công dụng: Tác nhân chống ung thư mạnh.

Vitamin E: Khởi đầu 400 IU/ngày, tăng dần lên 1.00 IU/ngày. Công dụng: Thiếu vitamin E sẽ dẫn tới ung thư vú, trợ giúp sản xuất hormone và chức năng miễn dịch.

Nấm hương Nhật Bản (miitake): 4.000 – 8.0000 mg/ngày. Công dụng: Ngăn chặn bướu ung thư lớn lên và bành trướng ra chung quanh. Cũng còn nâng cao chức năng miễn dịch cơ thể.

Thay đổi cách ăn uống thích hợp:

Chọn ăn nhiều trái cây tươi và rau xanh, ngũ cốc, hạt (ngoại trừ đậu phộng). Nguồn rau tươi thuộc họ hoa thập tự rất quan trọng gồm cải bông xanh (broccoli), cải Brussels (Brussels sprouts), cải bắp (cabbage) và bắp cải hoa (cauliflower). Cũng chọn rau quả có màu vàng như cam như: carrot, bí rợ hay bí đỏ, khoai lang vàng. Hãy chú ý: Thực phẩm có sự can dự của thuốc trừ sâu (pesticide) và các chất hoá học khác là đầu mối gây bệnh ung thư vì chứng bắt chước tác dụng của chất kích thích tố (estrogen) trong cơ thể làm rối loạn chức năng bình thường của nó.

Thường xuyên ăn táo tươi (fresh apple), quả anh đào (cherries), nho, mận và các loại quả berries, củ hành tây (onion), gừng tươi, tỏi tươi.

Nên uống nước suối tinh khiết hoặc nước cất tốt nhất. Đừng bao giờ uống nước máy. Nước bổ dưỡng siêu hạng vẫn là nước ép rau củ tươi bằng máy vắt không trộn thêm nước lọc. Buổi sáng dùng nước ép quả tươi, chiều nước ép rau tươi.

Không ăn thịt và tất cả sản phẩm có nguồn gốc động vật. Bởi vì hầu hết bò, gà, heo, vịt được nuôi và trị bệnh bằng hormone, kháng sinh để cho lớn nhanh lại chứa nhiều mỡ bảo hoà (saturated fat). Hậu quả chỉ có hại chứ không có lợi ích nhiều cho cơ thể.

Tránh uống rượu các loại, cafferine, thực phẩm phế thải, thực phẩm tinh chế, muối, đường, bột mì trắng. Cũng hạn chế ăn sản phẩm từ đậu xanh, vì nó gồm những enzyme ức chế.

Nên ăn nhiều thực phẩm có chất xơ (fiber), vì chất xơ bắt giữ những chất phế thải độc hại sau khi ruột non hấp thu những gì cần thiết vào máu và đẩy chúng xuống ruột già chờ tống ra ngoài.

Không ăn và uống thứ gì có chất sắt (iron), vì khối u sẽ dùng chất sắt để thức đẩy cho ung thư phát triển nhanh chóng.

Nếu bạn đang trải qua giai đoạn chữa bệnh ung thư vú bằng thuốc, xạ trị (radiation) hay hoá trị liệu pháp (chemotherapy) mà tự cảm thấy chán nản thất vọng hoặc hoảng sợ thì hãy tập trung tư tưởng nghĩ trong đầu rất tất cả phương tiện đó đã chấm dứt rồi và bệnh tình của mình giờ đây khá hơn hôm qua, tốt hơn những người đồng cảnh ngộ chung quanh. Phương pháp này mang lại nhiều kết quả không ngờ nhờ bên trong cơ thể tiết ra chất kháng sinh tự nhiên giúp chữa lành vết thương, nâng cao chức năng miễn dịch. Sống lạc quan là loại thuốc chữa bệnh cực quý trong mọi thời đại.

Đây là loại ung thư phổ biến nhất, đứng hàng thứ ba trong số các bệnh ung thư thuộc hệ sinh sản (reproductive system) của phụ nữ. Ung thư cổ tử cung được sắp xếp vào loại ung thư tiền xâm nhập hoặc xâm nhập.

Bài thuốc Đông y trị ung thư vú mang tính chất tham khảo độc giả không nên tự ý bốc thuốc uống khi cần phải gặp bác sĩ đông y để được thăm khám và kê toa. Quý khách có nhu cầu thăm khám và tư vấn miễn phí vui lòng liên hệ:

Thiện Minh Y Quán

ĐC: B14/12/9, Cây Cám, Tân Vĩnh Lộc, TPHCM

ĐT & Zalo: 0904 890 895 – Website: www.thienminhyquan.com

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *