Thống phong (gout) là một bệnh có hình thái giống như bệnh viêm khớp hay phong thấp (arthritis), nguyên nhân do rối loạn chuyển hoá làm tăng lượng uric acid trong huyết thanh dẫn tới hậu quả bằng những cơn đau kịch liệt và dai dẳng.
Bệnh thống phong thường xảy ra trước hết ở khớp xương ngón chân, ngón tay, đặc biệt khớp ngón chân cái và khớp ngón tay cái. Tuy nhiên, nó có thể tác động lên các khớp khác gồm: Khớp gối, khớp mắt cá nhân, khớp cổ tay, khớp bàn chân và các khớp nhỏ ở bàn tay. Nếu so sánh cường độ đau đơn thì bệnh gout gây đau khổ cho nam giới nặng gấp 10 lần hơn nữ giới, 90% nạn nhân là đàn ông trên 30 tuổi. Ở nam giới, cơn đau có thể chụp xuống bất cứ lúc nào sau khi chấm dứt tuổi dậy thì (phuberty), còn ở nữ giới, nó thường xảy ra chỉ sau thời kỳ mãn kinh (menopause).
Bệnh thống phong xảy ra khi uric acid trong cơ thể có khuynh hướng xâm nhập vào mô (tissue) học quanh khớp xương. Do tích luỹ quá nhiều, vượt quá mức giới hạn, uric acid tự biến thành những tinh thể nhọn và sắc như mũi kim, luồn vào nằm bên trong khớp xương. Hậu quả, mô bọc khớp xương bị viêm và các đầu mút thần kinh (never endings) trở nên nhạy cảm, bị kích thích dữ dội. Đây là dấu hiệu bởi những cơn đau khủng khiếp, triền miên.
Uric acid nguyên là một phó phẩm do chất đạm (proteins) chuyển hoá sinh ra và chất này được gọi là Purines. Một vài chất purines được cơ thể sản xuất trong khi các purines khác thì do thực phẩm ăn uống tạo ra. Cơ thể không hấp thu chất uric acid và phải được bài tiết theo nước tiểu ra ngoài. Nếu thận không lọc sạch chất purines theo chức năng, uric acid sẽ hoà tan với máu và khởi sự kết tinh ở nhiều vị trí trong cơ thể, đặc biệt tại các khớp xương.
- Triệu chứng:
Cơn đau cấp tính thường là triệu chứng đầu tiên của bệnh thống phong. Tiếp theo, các khớp bị ảnh hưởng gây viêm, sưng đỏ, nóng rát như phỏng lửa, rất nhạy cảm, không dám sờ vào vì đau khủng khiếp.
Sau cơn đau cấp tính, bệnh chuyển sang mãn tính ở nhiều cấp độ phát tác khác nhau. Tuy nhiên, có khi bệnh giảm dần không còn sưng đau khiến bệnh nhân lầm tưởng rằng bệnh đã chấm dứt. Vài tuần lễ sau, tháng sau hoặc năm sau, bệnh lại bất chợt bùng dậy như trước. Bệnh thông phong tái phát nhiều lần và có khuynh hướng ngày càng nặng thêm.
Khớp xương, có dấu hiệu cứng, khó co duỗi, đồng thời xuất hiện thêm các u cục tophi, một chất lắng đọng dưới da, hơi cứng, do các tinh thể uric acid và muôi của nó thành lập. Do viêm, khớp xương bị tàn phá và trở thành dị dạng, cong queo như cổ thiên nga. Lâu dần, khớp xương mất hẳn tính co giãn, không cử động được, người bệnh trở thành phế nhân.
- Nguyên nhân:
- Theo y học hiện đại
– Do tăng uric acid trong huyết thanh.
– Do thận không lọc hết chất uric acid.
– Có thể do cả hai trường hợp nêu trên.
– Do bệnh béo phì và chế độ ăn uống không thích hợp.
– Được xem là căn bệnh của người giàu do tiêu thụ quá nhiều thực phẩm béo bổ và uống rượu không chừng mực.
- Theo Đông y học
Đông y xếp bệnh “Thống phong” vào phạm vi chứng “Tý thống”. Chứng “Tý” có hàm nghĩa đau lâu ngày không khỏi. Thống phong có triệu chứng đau nhức giống như bệnh phong thấp hay thấp khớp nhưng có nhiều điểm khác biệt về dấu hiệu và di chứng, cường độ nặng hơn, gây tật nguyền suốt đời.
Do ngoại tà xâm nhập vào cơ thể gây tắc nghẽn kinh lạc, ứ trệ khí huyết lâu ngày gây tổn thương gân cốt, khớp xương biến dạng, đau nhức, co duỗi khó khăn.
Hiện tượng dưới da quanh khớp xương hoặc vành tai nổi cộm mọt vài khối u hơi cứng, không đau, trong chứa một chất dịch màu trắng như phấn mà Y học hiện đại gọi là “Tophi”, Đông y cho rằng khí huyết tân dịch rồi loạn. Tân dịch ứ trệ lâu ngày thành đàm, khí huyết không thông thành ứ, đàm hiệp với ứ hoá thành u cục.
- Lâm sàng có 2 thể bệnh:
- Cấp tính
Xảy ra cơn đau đột ngột ở khớp bàn chân, thường là khớp ngón chân cái, đau dữ dội, thời gian phát bệnh thường xảy ra vào ban đêm hơn ban ngày. Bệnh cũng có thể phát tác ở khớp đầu gối, khớp cổ chân hoặc tại khớp ngón tay cái hay các khớp nhỏ ở bàn tay.
Khớp sưng đỏ, nóng, sờ rất đau, khó cử động.
Bệnh kéo dài từ 2 – 7 ngày rồi khỏi, không để lại di chứng nào.
Bệnh rất dễ tái phát, không có chu kỳ nhất định.
- Mãn tính
Từ cấp tính, bệnh chuyển sang mãn tính, đau dai dẳng không lành.
Dấu hiệu viêm khớp xương, có tính đối xứng, tái phát nhiều lần.
Khớp xương đỏ hoặc không sưng nhưng thường kèm theo sốt.
Co duỗi khó khăn, cứng, khớp thoái hoá biến thành dị dạng.
Xuất hiện các nốt u cụ (hạt Tophi) quanh khớp hoặc vành tai, mềm không đau bên trong chứa một chất trắng như phấn.
Bệnh lâu ngày tổn thương thận gồm: Tiểu ra máu, sỏi đường niệu, suy thận cấp hay mãn tính, viêm thận kẽ…
- Chẩn đoán phân biệt
Bệnh thống phong hay gout có những biểu thị đặc trưng sau đây:
- Lâm sàng:
Xuất hiện hạt “Tophi” quanh khớp, vành tai Khớp tổn thương gây biến dạng, lệch khớp. Bệnh sạn thận do hậu quả bệnh Gout Uric Acid huyết tăng hơn 7mg%.
Có tiền sử gia đình mang cùng bệnh.
Viêm khớp không đối xứng, thường là khớp ngón chân cái.
- Phân biệt:
Chú ý phân biệt với bệnh viêm khớp dạng thấp (rheumatoid arthiritis).
Không có dấu hiệu uric acid tăng cao. Khớp viêm đau thường đối xứng.
Nếu uric acid có tăng thì cũng ở dạng đơn thuần (khớp bình thường).
- Điều trị:
Đông y trị bệnh thống phong (gout) thường dựa vào chứng và mạch đồng thời kết hợp với việc ăn uống kiêng cử đúng mức. Dưới đây là 2 mô thức tiêu biểu:
- Biện chứng luận trị:
Cần chú ý đến các giai đoạn phát triển của bệnh: Lần đầu hay tái phát 2 – 3 trở lên, sưng đỏ hay không sưng, khớp chưa hay có biến dạng.
Nếu là thể cấp tính, chủ yếu dùng pháp trị “Thanh nhiệt, khu phong trừ thấp, thông lạc” (tham khảo thêm các bài thuốc kinh nghiệm thể cấp tính).
Nếu là thể mãn tính, thường kèm theo “đàm thấp, hàn ngưng, huyết ứ”, nên dùng pháp “Trừ thấp, hoá đàm, ôn kinh tán hàn, hoạt huyết thông lạc” (tham khảo thêm các bài thuốc thể mãn tính).
Bệnh lâu ngày thường làm khí huyết suy yếu, âm dương bất hoà, cần bồi bổ khí huyết Can Thận để nâng cao chính khí.
- Ăn uống kiêng cử:
Vào lúc bệnh tấn công, nên tạm ngưng ăn thịt, cá, các loại tinh bột (bánh mì, cơm, phở, hủ tiếu, bột sò, mì gói), chỉ nên ăn rau xanh và trái cây tươi trong vòng 2 tuần lễ. Nước ép rau quả tươi là thứ thực phẩm tốt nhất cho người bệnh.
Uống nhiều nước tinh khiết, chủ yếu là nước chưng cất. Tránh uống nước máy công cộng. Nước rau cần tây (celery), dâu tây (strawberrries) và quả anh đào (cherries) có tính trung hoà uric acid nên ăn nhiều rất có lợi cho việc tẩy độc.
Kiêng ăn dầu mỡ, thịt, cá, gà, tôm, cua, mắm tôm, cà pháo, cà tím, đồ cay nóng, rượu các thứ thực phẩm có chứa Purines một hợp chất hữu cơ góp phần tạo ra uric acid gồm: Cá trổng (anchovies), cá mòi (sardines), cá hồi (salmon), cá trích (herring), trai (mussel), lá lách (sweetbreads), măng tây (asparahus), nước lèo (consomme), nước sốt, nước canh thịt, các loại nấm (mushrooms), bánh pate (píe), bánh ngọt (cakes).
Dùng hạn chế caffeine, bông cải (cauliflower), đậu khô, đậu lăng (lentils), trứng gia cầm, bột yến mạch (oatmeal), đậu Hà Lan (peas), rau mồng tơi Mỹ (spinach), và những thực phẩm có trộn men rượu (yeast).
Năng tập thể dục và chọn môn tập nhẹ nhàng, vừa sức. Nếu có béo phì, hay cố gắng giảm cân. Hễ trọng lượng giảm thì mức uric acid trong huyết tương cũng giảm. Tuy nhiên, không nên thực hành các phương pháp giảm cân nhanh bằng cách nhịn đói, bởi vì cơ thể thiếu ăn hơn 3 ngày, uric acid sẽ tiết ra nhiều hơn.
- Phương dược:
- Bài 1:
Thể cấp tính.
– Triệu chứng: Khớp chân cái bỗng sưng đỏ, nóng, đau, sốt, đau đầu, sợ lạnh, miệng khô, khát nước, tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn, mạch đi Sác.
– Nguyên nhân: Phong thấp nhiệt.
– Pháp trị: Thanh nhiệt thông lạc, khu phong trừ thấp.
Công thức:
Sinh thạch cao 60g (sắc trước); Tri mẫu 12g; Quế chi 06g; Bạch thược 12g; Xích thược 12g; Nhẫn đông đằng 30g; Phòng kỷ 10g; Mộc thông 10g; Hải đồng bì 10g; Cam thảo 05g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Gia giảm:
Thấp nhiệt năng, gây sưng tấy đau nhiều, tăng lượng Nhân đông đăng lên 40 – 50g, gia Thổ phục linh 30g, Ý dĩ nhân 30g để khử thấp; Thêm Toàn đương qui 12g, Tử đan sâm 20g, Trạch lan 12g, Đào nhân 10g, Hồng hoa 10g, Bạch cương tằm 10g để hoá ứ chỉ thống. Nếu có kèm biểu chứng như vừa đau vừa cảm giác lạnh, đau lan rộng, gia thêm Quế chi 12g, Độc hoạt 10g, Tế tân 03g để giải biêu tán hàn chỉ thống.
- Bài 2:
Thể bệnh mãn tính.
– Triệu chứng: Nhiều khớp cùng đau, cảm thấy đau ghê gớm, sưng to nhưng không đỏ nóng như thể cấp tính, co duỗi khó khăn, khớp biến dạng cong queo u sù như mắt tre, màu da tím đen, tê dại, chườm nóng, dễ chịu, sắc lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch đi Trầm Huyền Khẩn.
– Nguyên nhân: Đây là triệu chứng của “Hàn thấp ứ trệ”.
– Pháp trị: Khu hàn thông lạc, trừ thấp chỉ thống.
Công thức
Chế xuyên ô 05g (sắc trước); Tế tân 05g; Toàn đương qui 12g; Xích thược 12g; Uy linh tiên 10g; Thổ phục linh 15g; Tỳ giải 12g; Ý dĩ nhân 20g; Mộc thông 10g; Quế chi 06g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Gia giảm:
– Sưng đau nhiều, cứng khớp, rêu lưỡi trắng bẩn và dày, mạch đi Hoãn Hoạt là do đàm trọc ứ trệ, gia thêm chích Bạch cương tằm 10g, Xuyên sơn giáp 10g, Tạo giác thích 12g, Hy thiêm thảo 30g, Hải đồng bì 30g để hoạt lạc trừ đàm.
– Đau dữ dội, đau như dùi đâm, lưỡi tím bầm, mạch đi Sáp là do ứ Huyết, gia thêm Ngô công (con rết) 2 con, toàn yết (bò cạp) 05g, diên hồ sách (sao) để hoạt huyết chỉ thống.
– Đau lưng mỏi gối, đàn ông liệt dương, đàn bà lãnh cảm, chân tay lanh sợ lạnh, mạch đi Trầm Hoãn vô lực dô thận dương hư, gia thêm Phá cổ chi 10g, Nhục thung dung 12g, Cốt toái bổ 15g để bổ thận tráng dương chỉ thống.
– Nếu khi huyết lưỡng hư, gia thêm Hoàng kỳ 20 – 30g, Đương qui 12 – 15g, Nhân sâm 12 – 15g, Bạch truật 12 – 15g.
- Bài 3:
– Xuất xứ: Bài thuốc “Địa hoàng du linh phương” của Y sĩ Hồng Dụng ở hàng Châu thuộc tỉnh Triết Giang, Trung Quốc
– Triệu chứng: Sưng đỏ, nóng, đau.
– Pháp trị: Thanh nhiệt trừ thấp
- Công thức:
Sinh địa 15g; Hoàng kỳ 15g; Tử đan sâm 15g; Ích mẫu thảo 15g; Tang ký sinh 15g; Sơn thù nhục 10g; Phục linh 10g; Trạch tả 10g; Tân giao 20g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Gia giảm:
Nếu thận dương hư với triệu chứng chân lạnh, lưng gối lạnh đau, gia thêm Dâm dương hoắc diệp 10g, Tiên mao 10g.
Nếu Tỳ hư với triệu chứng bụng đầy, đi tiêu lỏng, gia thêm Đảng sâm 10g, Bạch truật 10g
Nếu có sốt với hiện tượng miệng khô, tiêu vàng, mạch đi Sác, gia thêm Hoàng Cầm 10g, Hoàng bá hoặc Sơ chi tử 10g.
Nếu can dương thịnh với biểu hiện đau đầu, váng đầu, gia thêm Câu đằng 10g, Cúc hoa 10g, Thiên ma 10g.
Kết quả lâm sàng: Đã trị 6 ca thống phong, lành hẳn 2 ca, huyết áp hạ xuống mức bình thường, creatine hạ xuống 1.8mg% uric acid huyết dưới 6mg% hết triệu chứng lâm sàng, còn lại cả 4 ca đều tiến bộ rõ rệt, giảm triệu chứng, huyết áp hạ dưới 150/90mmHg, uric acid dưới 7mg%.
- Bài 4:
– Xuất xứ: Bài thuốc “Thống phong phương” của Y sĩ Trương Huệ Thần Trung Quốc.
– Triệu chứng: Sưng đau nhưng màu da không ửng đỏ.
– Nguyên nhân: Thống phong cấp thể hàn thấp.
– Pháp trị: Tán hàn trừ thấp, thông lạc chỉ thống.
- Công thức:
Thương truật 10g; Hoàng bá 12g; Ngưu tất 12g; Hải đồng bì 12g; Khương hoàng 12g; Uy linh tiên 12g; Hy thiêm thảo 15g; Mao đông thanh 30g; Hắc lão hổ 30g; Nhập địa kim ngưu 30g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Ngoại dụng: Bên ngoài dùng Trắc bạch diệp 30g, Đại hoàng 30g, Hoàng bá 15g, Bạc hà diệp, Trạch lan 15g. Đem thuốc tán bột mịn, trộn với mật ong và nước làm hồ dẻo, nắn thành chiếc bánh đắp lên chỗ đau, ngày thay 2 lần.
- Bài 5:
– Biện chứng Đông y: Thấp nhiệt hạ chú.
– Pháp trị: Thanh nhiệt táo thấp
- Bài thuốc: “Gia vị tam diệu thang”
Công thức:
Thương truật 15g; Hoàng bá 12g; Ý dĩ nhân 30g; Ngưu tất 12g; Mộc qua 12g; Thanh đại 06g; Hoạt thạch 15g; Tri mẫu 10g; Kê huyết đằng 30g; Đương qui 15g (sau tăng lên 30g); Xích thược 15g; Tỳ giải 12g; Bạch cương tằm 30g.
Sắc uống ngày 1 thang
Hiệu quả lâm sàng: Trịnh Tấn Thành 45 tuổi, có tiền sử mắc bệnh thống phong đã hơn 15 năm. Lúc đều, khớp ngón chân cái bên phải sưng đỏ, nóng đau như bỏng lửa. Về sau lan dần tới khớp cổ chân phải rồi truyền qua khớp gối trái. Đau khủng khiếp, tái phát nhiều, cả khu vực phù đỏ như tôm luộc, mồ hôi toát ra đằm đìa, ban đêm đau nhiều hơn ban ngày, thậm chí sợ cả tiếng động.
Giải pháp trị liệu đầu tiên, một bệnh viện cho tiêm morphime để khống chế cơn đau nhưng không mấy hiệu lực. Bệnh nhân được chuyển qua một bệnh viện khác, làm xét nghiệm máu, thấy ure huyết 6.21mg%, chẩn đoán bệnh thống phong nhưng xương chưa có dấu hiệu biến đổi. Cho dùng thuốc Colchicin và Cortisn thấy giảm đau nhưng lại gây nhiều phản ứng phụ váng đầu, buồn nôn. Đổi qua dùng thuốc Sulfamid thì không có tác dụng. Về sau các triệu chứng càng nặng dần, thời gian phát tác dài hơn. Xét nghiệm máu lần nữa, thấy uric tăng 7.35mg%, huyết trầm 40mm/giờ. Chụp X-ray thấy đoạn đầu xương số 1 bàn chân phải bị ăn mòn khuyết, khoang giữ các khớp có dấu hiệu tăng sinh (mọc gai), đốt ngón chân hôi ngắn lại. Bệnh nhân tự xin điều trị bằng Đông y.
Khi đến trị, bệnh nhân đang trong tình trạng đau đớn cực độ, đi phải chóng gậy và phải có người giúp đỡ, xương ngón chân cái, mắt cá chân phải và đầu gối trái xưng đỏ như tôm luộc, nóng, nước tiểu vàng đỏ, rêu lưỡi vàng đen dày mà ướt nhuận, mạch đi Tế Sác. Chẩn đoán bệnh thuộc thể “Thấp nhiệt hạ chú”.
Sau khi cho bệnh nhân uống 6 thang thuốc “Gia vị tam diệu thang” thấy các ngón chân bớt sưng đau, rêu lưỡi bớt vàng đen, đi lại không cần chống gậy. Vẫn giữ nguyên phương thang, tăng lượng Đương qui lên tới 30g, gia thêm Bạch cương tằm 30g, cho uống tiếp 6 thang nữa thì thấy các triệu chứng sưng đỏ nóng đau biến mất, bệnh nhân đi lại dễ dàng, không cần chống gậy, rêu lưỡi sạch trơn. Vẫn giữ nguyên phương thang, gia thêm Mộc thông 10g, Ty qua lạc 10g, uống tiếp 6 thang, tổng cộng trước sau 18 thang, sức khoẻ hồi phục gần như hoàn toàn. Bệnh nhân xin xuất viện nhưng vẫn khuyên mang thuốc về nhà tiếp tục uống thêm một thời gian nữa để ngừa tái phát. Sau 1 tháng, cho xét nghiệm lại, thấy uric huyết ở mức 4.55mg%, huyết giảm ở mức 4mm/giờ. Vậy là sức khoẻ đã ổn định. Tuy nhiên, vẫn khuyên bệnh nhân dùng thêm thuốc ở dạng hoàn để củng cố kết quả. Sau 6 tháng, chụp X-ray, thấy chỗ khớp món huyết và mọc gai đã cải thiện nhiều, chất lượng xương gần như bình thường. Đánh giá, bệnh khỏi 99%.
Bình luận: Ca bệnh thống phong này thuộc phạm vi chứng “Thấp nhiệt tý” trong Đông y trong khi Y học hiện đại xem thống phong là một bệnh dị thường do chuyên hoá uric acid trong cơ thể. Theo kinh nghiệm Đông y, tuy các thầy thuốc y học cổ truyền biết bệnh Thống phong khá sớm từ 3 – 4 nghìn năm trước Công Nguyên, nhưng nói chung chỉ qui nạp vào bệnh “phong thấp, viêm khớp” hoặc “Viêm khớp có mủ”. Đông y dựa vào biện chứng để luận trị. Triệu chứng nóng đỏ, sưng tấy, đau sức thuộc phạm trù “Dương chứng, nhiệt chứng” nhưng “Dương” tính thì thường phát ở phần trên cơ thể, chỉ “Thấp nhiệt” mới có đặc điểm rót xuống dưới, kèm thêm rêu lưỡi vàng đen, thì rõ ràng nguyên nhân đã được xác định. Bài thuốc “Gia vị tam diệu thang” vốn là phương trị “Tháo thấp thanh nhiệt” kèm thêm tính “thư cân hoạt lạc, giảm đau” nên việc trị bệnh cả ngọn lẫn gốc đạt được thành công.
- Bài 6:
– Biện chứng Đông y: Phong hàn thấp tà, bế nghẽn kinh lạc
– Pháp trị: ÍCh khí thu phong, ôn kinh thứ thấp
- Bài thuốc: “Kỳ kỷ ô quế thang”
Công thức
Hoàng kỳ 12g; Phòng kỳ 15g; Chế xuyên ô 10g; Chế thảo ô 10g; Quế chi 15g; Phòng phong 12g; Đương qui 12g; Bạch truật 12g; Khương hoạt 10g; Độc hoạt 10g;Tân giao 12g;
Địa phong bì 10g; Uy linh tiên 12g; Hoàng đằng 10g.
Sắc uống ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Mai Lệ Xuân 47 tuổi, các khớp ngón tay, cổ tay, khớp cổ chân sưng đã hơn 1 năm, cử động rất đau, sợ lạnh. Đặc biệt, các khớp ngón tay trỏ, ngón giữa, ngón áp út sưng hình thoi, cứng không thể co lại hay duỗi thẳng vào buổi sáng, mạch đi Hoãn Nhược, chất lưỡi nhạt, rêu trắng dầy. Đông Y cho là chứn “Phong hàn thấp tý”
Sau khi cho uống 4 thang “Kỳ kỷ ô quế thang” các khớp giảm đau rõ rệt. Tiếp tục cho uống thêm 19 thang nữa có gia giảm tuỳ theo triệu chứng, bệnh lui hết, hoạt động dễ dàng. Theo dõi 1 năm chưa thấy tái phát.
- Bài 7:
– Biện chứng Đông Y: Phong hàn thấp uất tích lâu ngày hoá hoả khí trệ huyết ứ.
– Pháp trị: Sơ phong thanh nhiệt, hoạt huyết hoá ứ
- Bài thuốc “Hy đồng ẩm, xạ hương tam thất hoàn”
Công thức
- Hy đồng ẩm
Hy thiêm thảo 30g; Hải đồng bì 30g; Nhẫn đông đằng 30g; Tang chỉ 30g; Sinh ý dĩ nhân 30g; Kê huyết đằng 15g; Tần giao 10g; Tri mẫu 10g; Cát căn 10g; Phòng kỷ 10g.
Thêm nước vừa đủ, nấu sôi 20 phút, lọc lấy nước cô lại còn 300ml, chia uống ngày 2 lần
- Xạ hương tam thất hoàng:
Sinh toàn yết 60g; Tam thất 30g; Can địa long 90g; Sinh hắc đậu 05g; Xuyên ô 15g; Xạ hương 03g.
Cách làm và dùng: Đem tất cả tán thành bột mịn, dùng hồ gạo làm hoàn to cở hạt đậu xanh, ngày uống 2 lần, mỗi lần 7 – 10 hoàn với nước ấm.
Hiệu quả lâm sàng: Tô Thanh Lâm 27 tuổi, có tiền sử đau khớp xương đã 7 năm, thỉnh thoảng tái phát, mỗi lần phát bệnh thì sốt, các khớp xương lớn sưng đỏ, nóng, đau, không thể cử động mạnh được. Trước sau nhập viện 3 lần nhưng không đứt hẳn.
Lần tái phát gần đây có triệu chứng nặng hơn, các khớp đều sưng đỏ kể cả gót chân cũng sưng cứng, đau khủng khiếp, muốn đi phải có người dìu. Sau khi uống bài “Hy đồng ẩm” cả thảy 15 thang, các triệu chứng sưng đỏ, nóng sốt, cứng khớp đều giảm rõ.
Liền cho dùng kèm bài “Xạ hương tam thất hoàn” uống xen kẽ với “Hy đồng ẩm” thêm 15 thang nữa, các khớp hết sưng, hoạt động như thường.
Bài thuốc Đông y trị bệnh thống phong mang tính chất tham khảo độc giả không nên tự ý bốc thuốc uống khi cần phải gặp bác sĩ đông y để được thăm khám và kê toa. Quý khách có nhu cầu thăm khám và tư vấn miễn phí vui lòng liên hệ:
Thiện Minh Y Quán
ĐC: B14/12/9, Cây Cám, Tân Vĩnh Lộc, TPHCM
ĐT & Zalo: 0904 890 895 – Website: www.thienminhyquan.com